Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

148. Tứ Tổ Đạo Tín (580-651)

09/12/202014:53(Xem: 12958)
148. Tứ Tổ Đạo Tín (580-651)



Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Đạo Tín. Ngài là vị Tổ thứ Tư kể từ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, và là đệ tử của tam Tổ Tăng Xán.

Tổ xuất gia từ tuổi thơ. Năm 14 tuổi, sa di gặp Tổ Tăng Xán cầu xin dạy pháp môn giải thoát. Tổ Tăng Xán hỏi ai trói buộc. Sa di tìm không có ai trói buộc. Tổ bảo không ai trói buộc thì cần gì giải thoát. Ngài Sa Di thoát đại ngộ.

Sư phụ giải thích, nghiệp vốn không có sẳn, chỉ khi mình tạo tội thì là tạo thành nghiệp để trói buộc mình. Như người nghiện thuốc phiện, tự mình thử rồi bị trói buộc thành nghiện, thành nghiệp làm chủ mình. Trong kinh Pháp Cú, ác nghiệp này theo mình khắp cùng không sao trốn thoát được dầu bay trên trời, chui dưới biển, vào hang núi...Ác nghiệp được hoá giải nếu tạo thiện nghiệp.

Ngài Đạo Tín ở hầu Tổ được 9 năm, được Tổ truyền pháp ấn chứng là Tổ thứ Tư khi Tam Tổ Tăng Xán viên tịch.

Ngài đi giáo hoá, có nhiều đệ tử nổi tiếng như ngài Pháp Dung, ngài Hoằng Nhẫn .
Ngài Pháp Dung là sơ tổ của phái thiền Ngưu Đầu rất cực thịnh vào đời Đường, và chấm dứt vào đời Tống.

Ngài Pháp Dung năm 19 tuổi đã làu thông tư tưởng Kinh Đại Bát Nhã.
Tổ Đạo Tín đi dạo núi thấy có mây trắng phủ trên cao, Tổ tìm tới và thấy có một người ngồi thiền trên tảng đá. Tổ hỏi ngài Pháp Dung ngồi làm gì. Ngài thưa là Quán Tâm.
Tổ hỏi :”Quán là người nào, Tâm là vật gì ?”
Ngài Pháp Dung im lặng không trả lời được, liền xuống đảnh lễ và xin giải thích dùm con.
Tổ giải thích, Tâm là mình, Quán cũng là mình, vậy thì ai Quán ai?
Ngài Pháp Dung đảnh lễ xin xuất gia và hỏi Tổ ở đâu.
Tổ Đạo Tín nói bần tăng không có chỗ ở nhất định.
Ngài Pháp Dung hỏi có biết Tổ Đạo Tín không?
Tổ hỏi vì sao hỏi?, ngài Pháp Dung thưa là nghe tiếng. Tổ nói là Ta.
Ngài Pháp Dung hỏi Tổ tới đây để làm gì? Tổ nói tới đây để thăm và hỏi có chỗ nghỉ không.
Ngài Pháp Dung chỉ một am nhỏ, có cọp beo chung quanh am.
Tổ đưa hai tay lên có vẻ như sợ. Ngài Pháp Dung nói Ngài vẫn còn cái đó sao. Tổ hỏi cái đó là cái gì? và Tổ bước tới chỗ phiến đá viết lên chữ Phật chỗ ngài Pháp Dung ngồi.
Ngài Pháp Dung sợ hải, sợ tội không dám ngồi trên chữ Phật. Tổ nói vẫn còn cái đó sao. Ngài Pháp Dung không đáp được, bèn sụp lạy cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ khai thị: "Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm con".

Sư phụ giải thích từ " 1 tấc vuông" (kícn thước của Trung Hoa) là chỉ cho quả tim, quả tim ý chỉ cho bản tâm của mình, từ nơi tâm này lưu xuất mọi thứ.

Các pháp môn Quán giúp đối trị Tâm.
Quán Sổ Tức, để hơi thở tri bịnh loạn tâm.
Quán Bất Tịnh đối trị tâm tham ái.
Quán Từ Bi đối trị Tâm Sân.
Quán Nhân Duyên đối trị Si.

Tổ Đạo Tín khai thị cho Ngài Pháp Dung :”Tâm Phật vốn rỗng lặng,tự tại, không dao động theo cảnh duyên bên ngoài”.
Tổ khuyên ngài Pháp Dung ở đây tiếp tục tu, sau này có năm đại sư đến tiếp nối giáo hoá.

Tổ Đạo Tín tới Huỳnh Mai, gặp một đứa bé 7 tuổi, Tổ hỏi bé họ gì, bé thưa là họ Phật. Tổ hỏi con không có họ sao, bé thưa họ ấy là không. Tổ nghĩ là em bé này sẽ làm Phật pháp hưng thịnh.

Khi xưa, Tổ lên núi Long Phong, gặp một ông già khoảng 80, Tổ thấy ông già này sẽ thay Tổ giáo hoá sau này. Tổ khuyên ông già tái sanh. Ông già đã tái sanh thành một chú bé gặp lại Tổ lúc được 7 tuổi và là Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn sau này, Nhẫn là có người mẹ chịu đựng nhẫn nhục nuôi dưỡng Ngài.
Sau khi xuất gia, tứ Tổ Đạo Tín gọi Ngài tới truyền pháp trao y bát.

Đức độ của Tổ lan rộng, Vua Trình Quán đời đường cho thỉnh Tổ 3 lần vào cung giảng pháp, Tổ đều từ chối. Vua ra sắc lệnh nếu lần thứ tư không đi thì lấy thủ cấp. Khi quân lính đến, Tổ ngửa cổ ra, không sợ hải. Sứ giã về trình vua. Vua cho đem lụa gấm cúng dường Tổ.

Ngày 4-9 năm Tân Hợi, Tổ gọi tất cả môn đồ đến và dạy :”tất cả pháp đều là giải thoát, nếu tâm không vọng động”.

Nói xong Tổ ngồi an nhiên thị tịch, trụ thế 72 năm, hạ lạp 60 năm. Tổ suốt đời tu không có nằm, chỉ ngồi thiền. Một năm sau, mở cửa tháp, nguyên người của Ngài không thay đổi, tuơi như lúc còn sống, Vua Tống phong cho Tổ là Đại Y.

Sư phụ có kể trong thời hiện đại Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng không có nằm, chỉ ngồi thiền và ngủ ngồi.

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được SP dày công ban pháp mầu kỳ diệu của Tổ như truyện thần thông cổ Tích, nhưng là có thật, chỉ cần nhất tâm hành trì theo lời chân truyền của Tổ là giử Tâm không vọng động là đạt đạo, là giải thoát.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).


31_TT Thich Nguyen Tang_To Dao Tin

Hết thảy các pháp đều là Giải Thoát !


Con kính dâng Thầy bài thơ khi nghe pháp thoại về Tổ Sư Đạo Tín .
Kính bạch Thầy phải nói là ...
không hiểu con như bị chấn động với thiền sử tư liệu này
và rưng rưng nước mắt khi biết rằng mình đã được đại duyên
nghe pháp thoại Thầy giảng ...Kính đa tạ và tri ân Thầy, HH


Tổ Đạo Tín, bậc kỳ tài xuất thế

Mười bốn tuổi “ AI RÀNG BUỘC “ ngộ lần đầu

Mười năm sau.... lẽ huyền vi càng thâm sâu

Triệt Ngộ được truyền bát, y ca sa và Pháp


Hai đệ tử nối pháp ... kỳ duyên khi thu nạp

Pháp Dung , Hoàng Nhẫn rạng danh tông môn

Điềm ứng nghiệm khi Tổ đến Lô Sơn

“Lộng sắc tía giữa sáu luồng... khí trắng chen quyện”


Tổ hành đạo tinh tấn tọa thiền được nổi tiếng

Chưa ngã lưng xuống chiếu suốt sáu mươi năm

Diệu dụng thần thông, vượt đường xa Pháp Dung tầm

Đệ tử nối pháp ... lập thêm nhánh mới

Nào cùng tìm hiểu hai đệ tử cự phách, xin kính gởi :


1/ Thiền Sư Pháp Dung ẩn cư tại núi Ngưu Đầu


Một lần đến núi, Tứ Tổ biết có dị nhân

Khi hỏi, đáp “ Ngồi đây chỉ quán tâm “

"NGƯỜI QUÁN LÀ AI, TÂM LÀ VẬT GÌ ? “ Tứ Tổ chỉ dạy,

Sụp lạy mới biết Tổ là người mình ước ao lễ bái

"Ngài vẫn còn cái đó ? --Cái đó là gì ?

Trên chỗ ngồi lập tức Chữ Phật được ghi

TRĂM NGÀN PHÁP MÔN ĐỀU QUY VỀ MỘT VUÔNG TẤC “

Truyền tâm ấn sau khi giải liễu nghĩa chữ Phật

Hãy trụ lại núi này giáo hóa tiếp ...thêm sau năm vị !


2/ Thiền Sư vĩ đại Huỳnh Mai Hoằng Nhẫn

Đứa bé “họ thì có mà không phải họ thường” ....Họ Phật !

Pháp khí hào hùng, Tổ nhận cho đứa bé xuất gia,

Tái sinh từ Tài Tòng Đạo Giả ...vị sư già

Triệt ngộ nhanh và được trao “Đại Pháp Nhãn Tạng “

Tích truyện kể lại, không ai không tán thán

Thiền tông phát triển hưng thạnh, hoa năm nhánh


Trở lại Ngài Đạo Tín ...ba lần vua triệu thỉnh !

Lần thứ tư sẵn sàng dâng thủ cấp về triều

Vua xá tội, cúng dường gấm lụa nhiều

Thị tịch ...một năm sau, tháp thờ cửa mở !

Nhục thân nghi dung xinh đẹp không ngờ

Đạo hiệu ĐẠI Y Thiền Sư hành trạng rực rỡ !

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật .


Huệ Hương




🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2011(Xem: 26185)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Giọng niệm: HT Thích Hạnh Hòa, TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng www.quangduc.com
13/06/2011(Xem: 11046)
Audio: Thiền Tập, bài giảng của TT Tâm Thành
23/04/2011(Xem: 4211)
Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
01/04/2011(Xem: 3850)
Mấy ngày trước, có một đồng tu đến kể với tôi rằng ông gặp một câu hỏi khó như sau: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Ông không thể trả lời, liền trở về hiệp hội hỏi tôi, để về sau nếu gặp câu hỏi này thì nên trả lời như thế nào? Tôi nói với ông ấy, giả như về sau lại có người hỏi như thế thì ông nên nói với họ: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều”. Họ sẽ hỏi ở đâu.
24/02/2011(Xem: 25929)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
24/02/2011(Xem: 7922)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
22/02/2011(Xem: 4121)
I. GIỚI THIỆU: Kỳ-na giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo phi Phệ-đà và có những đặc điểm của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một phong trào chống lại chủ trương tế lễ của Bà-la-môn giáo và tính thẩm quyền của Phệ-đà.
18/02/2011(Xem: 5354)
Bà La Môn là phiên âm của từ Brahman, sau nầy biến cải thành đạo Hindu, một tôn giáo chính của Ấn độ ngày nay, nên ngày nay gọi là Ấn Độ giáo. Đặc biệt Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ.
08/02/2011(Xem: 3766)
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinhI, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức,Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
05/01/2011(Xem: 13211)
Lễ Thù Ân Giọng tụng: HT Thích Quảng Bình (HT Thích Quảng Bình lễ Thù Ân tại Tu Viện Quảng Đức ngày 5/11/2011)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]