Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Di Lặc

26/01/202308:14(Xem: 1896)
Xuân Di Lặc
Phat_Di_Lac_6



Xuân Di Lặc

 
     Nhìn hai cành đào đặt trên điện Phật, mỗi bên có treo một dây pháo và cánh thiệp chúc Tết. Đặc biệt cánh thiệp Mừng Xuân Di Lặc, không biết ai đã hoạ hai câu thơ bằng chữ Hán tả Phật Di Lặc như sau:

“Đại đỗ năng dung, liễu khước nhân gian đa thiểu sự
Mãn khang hoan hỷ, tiếu khai thiên hạ cổ kim sầu.”

Nghĩa:

Lòng rộng bao la, quét sạch trần gian vô hạn hận
Mặt đầy hoan hỷ, cười tiêu thiên hạ cổ kim sầu

 Hai câu thơ nầy rất ý nghĩa, bởi Xuân Di Lặc là mùa xuân ôm trọn cả mùa hương đạo. Đối với người Phật tử Á Đông, nhất là Phật tử Việt Nam. Lễ Giao Thừa còn gọi là Lễ Đản Sanh Phật Di Lặc Tương Lai. Bởi hiện Ngài là vị Bổ Xứ Bồ Tát ở Đâu Suất Nội Viện Thiên Cung, sẽ Giáng Thế và kế tục Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ở Sa Bà này, chính Đức Thế Tôn đã phú chúc như thế. Cho thấy, Ngài có nhân duyên lành sâu xa đối với chúng sanh nơi cõi này.


     Theo truyền thuyết, tuy chưa đến kỳ giáng thế, Ngài đã mang niềm an vui hoan hỷ đến cho chúng sanh qua nhiều phương tiện, bằng cách hoá hiện thân tướng của một Tỳ Kheo dị thường, bụng to, áo rách không cài nút, mang dép cỏ, hoặc guốc gỗ, vác chiếc đãy vải lớn, đi đây đó khắp nơi để giáo hoá chúng sanh. Từ đó dân gian thường gọi Ngài là Bố Đại Hoà Thượng. Mỗi cách ăn mặc của Ngài là như để báo trước một điềm gì đó sắp xảy ra, hoặc thời tiết hoặc mùa màng chẳng hạn.

 Hình ảnh đó thể hiện nếp sống đầy an vui và buông bỏ, không chút ưu phiền, đi cũng không ai biết đến chẳng ai hay. 
     Có lần có người hỏi Ngài, “Phật Pháp là gì?” Ngài liền bỏ cái đãy xuống. 
 Họ hỏi tiếp, “Thế Phật Pháp có gì hay hơn nữa?” Ngài liền vác đãy lên vai và bước đi. 

     Trừu tượng một chút, chúng ta có thể hiểu hành trạng của Ngài là một hành động rất sống động, biểu hiện của Ngài là Phật Pháp có công năng giúp cho hành giả biết buông xuống (emptiness).  Với người bình thường, càng ôm cái lợi cái danh vào nhiều chừng nào thì họ càng hứng thú. Ngược lại, với một hành giả, càng biết buông xả thì càng tiến gần hơn đến sự giải thoát giác ngộ. Và cử chỉ vác đãy lên vai bước đi, là hành giả đang thật sự sống pháp, biết gánh vác trách nhiệm với sự sống còn của Chánh Pháp. Đồng thời, biết hoà đồng với niềm vui nỗi khổ của chúng sanh, mà vẫn luôn bước tới. Nghĩa là không tách rời hoặc xa lánh thế gian, mà hãy đặt lên vai mình một trách nhiệm là làm cho chúng sanh giác ngộ, bớt khổ, được an vui như mình. Đó chính là “Phật Pháp bất ly thế gian giác.”  Ngược với quan niệm rằng, người tu là phải che mắt, bịt tai, không được nghe, không được thấy, ai chết mặc ai. Quan niệm như thế là cho người tu không khác một khúc gỗ là mấy!

      Một lý giải sâu xa hơn, cũng qua hành trạng đó, Ngài đã không muốn thế gian lưu lại vết tích gì về Ngài, để như giọt nắng của thời gian chỉ chiếu xuyên qua, làm ấm dậy mùa xuân cho cây đâm chồi kết nụ. Rồi tự tan biến để soi chiếu về một nơi xa xôi đen tối khác, đã thể hiện qua bài thơ chính tay Ngài hoạ và lưu lại cho cư sĩ tên Vương Nhân Hú, là huyện trưởng huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến bên Trung Hoa thời bấy giờ như sau.

Di Lặc chân Di Lặc
Hoá thân thiên bách ức
Thời thời thị thế nhân
Thế nhân câu bất thức

Dịch:

Di Lặc thật Di lặc
Hoá hiện ngàn muôn thân
Ngày ngày hiện đây đó
Người đời khó nhận chân

 Dưới bài thơ này có chín chữ, “ Bất đắc trạng ngô tướng, thử tức thị chân.” Nghĩa là: Không nên khắc, vẽ hình tướng của ta ấy mới là thực tướng vậy. Ấy chính là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

         Qua đó, chúng ta thử nhìn kỹ cành đào và sẽ nhận ra, cành đào chỉ là một nhân tố khởi sắc cho cái đẹp của mùa xuân, song có mùa xuân cũng nhờ nhiều yếu tố của các nhân duyên khác hợp thành. Cái đẹp hôm nay là kết quả gom lại của bao tấm lòng đẹp từ hôm qua. Trên mấy cành đào có thoáng hiện những nụ cười đầy an lạc và thiện cảm. Trong đó chắc cũng có nụ cười của đạo hữu Nhuận Thành. Người viết nhớ lại mấy ngày trước, đạo hữu này khệ nệ khiêng mấy cành đào từ ngoài xe vào thật to, thật đẹp, nụ nào cũng no tròn, kết khắp cành, đem đặt lên bàn, lấy nước đổ vào bình, đợi người viết ra tay cắm như mấy Tết trước. Cứ mỗi năm thay vì có hai cành mai trên điện Phật chưng Tết, thì ở xứ này, chúng tôi dùng đào cắm thay mai. Đào nở thật đẹp và nét đẹp rất sang. Chẳng phải hoa anh đào hay đào ăn trái. Loại đào này một số người gọi là mai đỏ. Thật ra mai đỏ hay đào cũng không khác, miễn có chưng để làm đẹp cho không khí mùa xuân cũng là điều ý vị. Nhìn mấy cành đào người viết dặn đạo hữu Nhuận Thành, “Ngoài hai bình thầy sẽ cắm chưng bàn Phật, đạo hữu giữ lại cho thầy một cành nào đẹp đẹp, lấy thùng chứa nước dưỡng lại, có Phật tử đặt từ năm trước rồi ạ.” Đạo hữu Nhuận Thành cười cười không nói gì, vì tưởng người viết nói đùa. Nụ cười của đạo hữu vừa hiền từ mà chân thực, cho thấy bấy lâu nay ít nhiều có thực tập công phu hàm dưỡng, nên cũng tỏa ra niềm an lạc trên khuôn mặt như một món quà Xuân Di Lặc vậy. 

       Tết vừa rồi có một đạo hữu vào Chánh điện lễ Phật xong, đang ngắm nghía mấy cành đào, vừa thấy người viết từ phòng bước ra liền lên tiếng “ Bạch Thầy hai cành đào nở đều đặn đẹp ghê Thầy ơi! Đã bốn năm rồi, năm nào con cũng thấy Thầy chưng hai cành đào thật tuyệt. Có lẽ Thầy đặt mua từ Cali về hả thưa Thầy? Năm nay trễ rồi, năm tới Thầy đặt thêm giùm con vài cành chưng Tết cho vui nha thưa Thầy”. Phật tử nói thế, người viết tưởng chỉ đùa cho vui, nên cười và đùa lại, “ Không, đào này thầy đặt mua từ bên Nhật kia mà”.  “Thật hả Thầy?” “Không, thầy chỉ nói đùa thôi, chứ đào này mọc quanh bờ rào các nhà cư dân gần đây nhiều lắm”. Phật tử ngạc nhiên, “Nhưng hôm nay là ngày Tết rồi, trời còn lạnh nên đâu có cây gì đâm chồi trổ nụ đâu mà Thầy đã có đào hoa nở rồi, hơn nữa con ở đây đã hơn mười năm qua, con đâu có thấy cây đào nầy bao giờ đâu, làm sao mà nở ra như thế này được.” Tôi thầm nghĩ Phật tử nói cũng đúng, nếu không để ý nhìn và không biết cách làm cho đào nở sớm thì chẳng ai biết quanh mình có một loại cây có hoa đặc biệt như thế. Loại đào này để nó nở tự nhiên trên cây, dĩ nhiên không thấy gì đẹp, thành thử nhìn không ra thì cũng phải. Hơn nữa, để hoa nở theo thời gian tự nhiên, là phải đến cuối tháng ba, đầu tháng tư mới có hoa. Lúc đó là nhiều loại hoa thi nhau rực nở thì đâu còn ai để ý bụi (bush) hoa này nữa. 

        Thật ra chung quanh ta cây cảnh thiên nhiên đều đẹp, nhưng nét đẹp của nó có hợp với nhãn quan của người thưởng thức hay không, đấy mới là giá trị chân thật. Qua bốn mùa xuân, nay là cái Tết thứ năm sắp kề, chùa năm nào cũng có đào để chưng, cũng không ít Phật tử ngạc nhiên tại sao Thầy tìm đâu ra loại mai đỏ để chưng trên bàn Phật mà đẹp như thế. 

       Điều khác biệt là, hoa trong cửa thiền là hoa đạo, nên không chỉ chưng cho đẹp, mà còn để nhắc nhở người thưởng thức biết quán chiếu lẽ vô thường của hoa nữa. Cái đẹp không lưu lại vết tích, mới chân thật là đẹp và vẫn hiện hữu không bao giờ mất. Dù cho cái đẹp của cành đào đi nữa thì cũng quá mong manh tạm bợ, trong mấy ngày rồi sẽ héo úa tàn phai và sẽ trả về cát bụi. 

      Để hưởng trọn mùa Xuân Di Lặc hằng hữu, chúng ta thử soi tìm nét đẹp trong ta. Không phải là lớp áo choàng của thể xác bên ngoài, mà chính tâm hạnh và thể tánh hằng quang sáng bên trong không hề mất. Và không bao giờ thay đổi, như chính bài thơ mà Bố Đại Hoà Thượng đã họa để chỉ bình đẳng tánh Phật sẵn có trong mỗi chúng sanh: 

“Ngô hữu nhất Thế Tôn 
Thế gian giai bất thức
Bất tố diệc bất trang 
Bất điêu diệc bất khắc 
Vô nhất khối nê thổ 
Vô nhất điểm thái sắc 
Công họa họa bất thành 
Tặc thâu thâu bất khứ
Thể tướng bản tự nhiên 
Thanh tịnh thường hảo khiết 
Tuy nhiên thị nhất Tôn
Phân thân thiên bách ức.”

Dịch nghĩa: 

Trong ta một Đức Phật 
Người đời không ai hay 
Không đúc, không trưng bày
Không điêu, không thể khắc 
Đất nắn, nắn không xong 
Không cần tô màu sắc 
Thợ vẽ, vẽ không thành 
Giặc cướp, cướp chẳng mất 
Thể tướng vốn tự nhiên 
Thanh tịnh và sáng trong 
Dù chỉ là một Phật 
Hoá hiện ngàn muôn thân.

Tuệ Minh-Thích Phước Toàn

(trích Giai Phẩm Xuân Kỷ Mão, Chùa Phước Huệ, Năm 1999)
(ảnh Tết 2020)
Xuân Di Lặc


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/01/2012(Xem: 7779)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
19/01/2012(Xem: 7402)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả. Ở Trung bộ gọi là mâm quả tử, lưu ý đến hạt/tử hay nói rõ là quả có hạt, hơn là quả nói chung, ám chỉ tín lý phồn thực: cầu mong sự sinh sản, gieo một hạt được trăm hạt, nhất bản vạn lợi...
18/01/2012(Xem: 7191)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
18/01/2012(Xem: 6205)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
16/01/2012(Xem: 5197)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
15/01/2012(Xem: 11525)
Đi cho hết cõi Ta Bà,sống cho trọn kiếp nhân sinh, cuối cùng chúng ta quay đầu về cố quận, điểm không cùng của sanh tử, lằn ranh vô tận của vô minh, khởi đầu và chung cuộc. Mộtsự đối diện gay go, thách đố giữa hai bờ mê ngộ, trên từng đỉnh cao ngút ngàn củagian truân vất vả, với vô thường cận kề nối nhịp, hay trên từng hoang sơ trơ trụituyết sương, nhịp bước cùng ta trong sự hoan hỷ tuyệt cùng?.. Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
15/01/2012(Xem: 5175)
Sự khai bút của những câu đối trên là một dạng sángtạo văn hoá và đã trở thành phương tiện biểu đạt cho thời điểm hội tụ của ngườicon Việt trong ngày Tết. Tuy có tính cách tượng trưng không liên quan đến cácđiển tích, nhưng nó đã diễn đạt được mối quan hệ giữa con người và thiên nhiêntrong bối cảnh mới, không gian mới, bằng những sự mong mỏi đón nhận được mọi sựtốt lành đến cho mình cũng như cho người. “Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà."
13/01/2012(Xem: 6989)
Không biết Tết có từ bao giờ vàbắt nguồn từ đâu, nhưng đúng là Tết có một cái hồn. Dù sống ở đâu và làm gì,người Việt trên khắp thế giới ít ai không rạo rực mỗi khi Tết về. Tết cũng là ngày hội lớn của cả nước đã có từ ngàn xưacho nên cái hồn của Tết cũng là một phần cái hồn của đất nước. Trong Tết có mùivị đất và nước của quê hương... Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
13/01/2012(Xem: 11757)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
12/01/2012(Xem: 6985)
Trong bốn mùa, mùa xuân biểu hiện rõ nhất sự đổi mới: cây thay lá mới,thiên nhiên trẻ lại, trời đất trong sáng và dồi dào sinh khí… Thậm chí ngay cảngười ít cảm xúc nhất cũng phải theo thiên hạ mà làm sạch nhà cửa, ăn mặc mớisạch, đi đâu cũng phải làm ra vui vẻ. Trong ý nghĩ thì chúc nhau những điều tốtđẹp tích cực, loại bỏ những ý nghĩ thô xấu tiêu cực. Quét rửa vào những ngàycuối năm, rước lộc về, thắp hương cầu khấn, chẳng phải là muốn đem về nhà cáimới, cái hên để thay thế cho những cái cũ, cái xui xấu của năm vừa qua sao?... Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567