Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa Mai Của Mùa Xuân Muôn Đời

22/01/202008:27(Xem: 4412)
Hoa Mai Của Mùa Xuân Muôn Đời

 hoa_mai_6

 HOA MAI CỦA MÙA XUÂN MUÔN ĐỜI

 

Khi nói đến mùa xuân  ai cũng đều  nói đến hoa mai. Bạch mai hay hoàng  mai  cũng đều  được thừa nhận  là loài hoa của mùa xuân, đại diện  nhiều hương sắc khác trong vườn hoa dân tộc để khắc thêm đậm ý nghĩa mùa xuân. Điều này dược  xác nhận  rất nhiều, đặc biệt trên văn đàn  và thơ nhạc. Do vậy không phải  ngẫu nhiên mà  Cao Bá Quát ( 1809 – 1855 )  hạ bút như một xác nhận bên cạnh  nỗi lòng thế sự :

Mười năm giao thiệp tìm gươm báu

Một đời chỉ cúi trước hoa mai.

 (Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa )


Cao Bá Quát (1)

                   Hoa mai được trọng thị như thế  trước hết không chỉ bởi do đứng bên bóng dáng mùa xuân, ngược lại chính hoa mai mới  làm nên mùa xuân  tuyệt sắc, là một vị sứ thần của mùa xuân báo trước tin vui đến  con người và vạn vật. Kế nữa là do tự thân hoa mai  được sinh ra , trưởng thành từ trong chính những khó khăn , khắc nghiệt của dòng đời. Thế nhân  vì cuộc sống  sinh tồn hay trong  cơn  vật lộn với bao trắc trở, âu lò, luôn gởi gấm vào hoa mai niềm tin vượt khó và khởi sắc , làm nên  những niềm vui cho cuộc đời. Thiền sư Hoàng Bá Hy Vân ( ? - 850 ) xưa kia há đã chẳng nhìn thấy chất tinh túy, đáng quý , đáng trân trọng ấy của hoa mai :

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt

                       Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

                      (Bất thị nhất phiên hàn triệu cốt

                      Tranh đắc hoa mai phốc tỷ hương )


Thiền sư Hoàng bà Hy Vận (1)

                    Có thể, nhiều người cũng cho rằng hoa mai   không có cái đẹp khoe sắc rực rỡ hơn nhiều loài hoa khác, nhưng hoa mai có cái cốt cách và nét đặc thù riêng để tự tạo cho mình thế đứng  hãnh diện  bên mùa xuân. Ươm mầm từ trong  gian khó, nghịch duyên chỉ để bừng khai , mở cánh cửa mùa xuân báo hiệu niềm  hoan hỷ cho  thế nhân.Ai đó từng cho rằng thiếu  hoa mai thì  mùa xuân trông ảm đạm và buồn tẻ biết bao, âu cũng chẵng  quá lời. Nhớ thời thơ ấu của  chính gia đình mình, lúc đất nước còn chiến tranh và khi mà cuộc sống của gia đình còn nặng phần cơm áo thì việc trang trí hay  muốn tạo nét đẹp mùa xuân, người  Sài gòn chúng ta thường gọi là «  ba ngày xuân » hoặc «  ba ngày tết » thì không phải ai cũng  chú tâm lo lắng. Tuy vậy, nhất thiết trên bàn thờ phải có một cành mai được xin từ những ngưởi quen, hầu hết là mai tứ quý. Một cành mai lẻ loi, được cắm chung với  một vài  loài hoakhác , chủ yếu là bông trang hay  vạn thọ, trọng mới tội nghiệp làm sao. Nhưng ai cũng tin rằng nhà mình đã có mùa xuân nhờ  cành mai ấy và yên tâm « ăn tết « cùng thiên hạ mà lòng chẳng muộn phiền. Sức mạnh và sự cuốn hút của hoa mai đến là vậy. Bởi thế  mới nhớ làm sao cụ Tố Như ( 1765 – 1820) khi buông lời khen :

«  Mai cốt cách , Tuyết tinh thần

 Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười « 

( Đoạn Trường Tân Thanh )

Nguyễn Du (1)

Cụ Tố Như  quả thật tài tình khi hàng trăm năm sau đã bổ sung  như là một chứng quyết cho những lời dạy của Mãn Giác Thiền Sư ( 1052 – 1096 ) quan bài kệ « Cáo tật Thị Chúng « ( Trên  giường bệnh dạy tăng chúng). Trong đó thiền sư đã  lấy hoa mai và mùa xuân làm điểm nhấn cho  chân trời lý tưởng mình đang vươn tới. Như đã nói, hoa mai  đại diện cho ngàn hương sắc  khác trong mùa xuân, nên luôn được nhắc đến như là chính thể cách của mùa xuân . Cho nên  mấu chốt cũng là điểm nhấn trong bài thi kệ này, thiền sư nhẹ nhàng  viết :

« mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

 Đình tiền tạc dạ nhất chi mai »

( Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một  cành mai )

Mãn Giác thiền sư ( ảnh ) (1)

                         Người đời sau không còn thắc mắc rằng  Mãn Giác Thiền Sư đọc bài kệ nói trên vào  lúc đông tàn xuân đến hay  hạ vè chói chang, mà quan trọng ai cũng đều hiểu rằng hoa mai và mùa xuân là tất cả , là khởi đầu trong chu kỳ tuần hoàn  chốn nhân thế. Người có  tư duy  Phật học  thì còn dễ dàng nhận  định hơn  về  mùa xuân – hoa mai  trong bài kệ ấy của thiền sư. Ở đó còn có sự rộng mở về  Sinh, Lão, Bệnh, Tửhay  bốn phương pháp ( Tứ Diệu Đế) mà ngày xưa, khởi đầu cho một cuộc hoằng hóa dài, đức thế Tôn đã chôn để thuyết giáo.

Đã từng  có lần, hoa mai được đưa lên bàn  tranh luận khi cho rằng  với  khí hậu  và thổ nhưỡng phía Bắc, đặc biệt những vùng có tuyết lạnh, hoa mai chỉ có thể là loài thân  cây gỗ, có trái, sinh trưởng thích hợp với điều kiện  khí hậu những nơi này .Có thể, những  lập luận đó xuất phát  từ  những  áng thơ kệ  của các vị thiền sư  kể trên, tất cả đều có nhắc đến tuyết lạnh và sương rơi. Người ta còn viện dẫn  thí dụ  từ điển Hán – Nôm của Thiều Chửu( 1902 – 1954 ) nói rằng  hoa mai là thân gỗ, có trái, ăn được. Những ý kiến  đó xem ra cũng rất có lý, tuy nhiên  qua thời gian nhận lại phản hồi chì là sự im lặng  mặc nhiênvà để rồi như chúng ta thấy hoa mai được nhắc nhiều mỗi dịp xuân sang thì vẫn cứ là  loài hoa hoàng mai năm cánh như  bao giờ. Có một điều loài  hoàng mai này vẫn còn hiện diện  mỗi độ xuân sang  trên đỉnh non thiêng Yên Tử , gọi là mai vàng Yên Tử !

hoa_mai_1

                          Cũng đã lâu lắm rồi, xin đi  ra ngoài lề đôi dòng, người viết  có nghe được một ý kiến  phân tích câu ca« Hôm qua tát nước đầu đình, bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen… »và cho rằng đó là loài cây sen thuộc dạng  thân cây lớn, chứ không thể là cành sen mỏng manh dưới ao đầm mà  anh chàng kia có thể máng chiếc áo  lên trên đó ! Lại nhớ  thời tiều học của mình,  giáo viên khác tôn giáo giảng rằng « cây bông sen chỉ bằng  núm tay, ra chợ mua một ký thịt bò để lên xem có bị chịu nồi không huống hồ cái thây ông Phật ngồi lên trên đó « ! Thực dụng đến thế là cùng. Sau này  lớn lên  được  tìm hiểu đầy đủ muốn tìm  gặp lại vị nữ giáo viên ấy  nhưng  xem ra  sự đối đãi nghiêm túc của mình sẽ không công bằng. Cây sen  cổ thụ chỉ có thể có ở một vùng, một địa phương nào đấy thôi chứ không phải loài sen  trong đầm ao, mọc quanh đình chùa làng quê mà vùng miền nào, ít nhiều cũng thấy có. Điều lạ lả một câu  trao tình ( ngôn ngữ bây giờ gọi là « thả thính ») của một chàng trai với một cô gái  mình để ý thi vị và hình tượng đáng yêu đến vậy, lại  bị  nhãn quan thực dụng  can thiệp thì  tội quá, nhất là  cô gái làm sao mà leo trèo lên cánh cây sen to lớn kia để nhặt chiếc áo trao tình  chàng trai ? Với chuyện cục thịt bò và  cái thây ôngPhật, không lâu sau đó người viết cũng  tím cách nhắn  trả lời rằng cục thịt bò chưa thấy và chưa bao giờ có ai đề trên hoa sen, và ông Phật  cũng chưa bao giờ thực thụ ngồi trên  cái hoa sen nhỏ bé ấy để làm gì khi mà hình tượng hoa sen được tượng trưng cho những  đức tính gì trong  đạo Phật  được  những người  không chịu khó  suy tư , nghiên cứu để nhận ra. Người ta chỉ thầy một đóa sen thật đẹp chứ không thấy một cục thịt bò tanh tưởi trong mắt mình. Một loài trùng tên nhưng khác  chủng  loại nữa là  cây mận của các tỉnh  vùng núi phía Bắc nước ta, thường chỉ ra trái vào đầu  mùa Hạ hằng năm ; còn  cây  mận  của Miền Nam thì hầu như tình thành nào cũng đểu có, cho ra trái quanh năm. Và còn rất nhiều  loài cây trái trùng giống  nhưng khác tên gọi nửa nhưng tất cả đều không bị đem ra so sánh  và như là muốn dành giật tên gọi chính chức .

                        
  Lịch sư, văn chương, văn học ít nhiều cũng giúp chúng ta xác định được rất nhiều khái niệm trong cuộc sống. Hoa mai giở đây đã nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của mùa xuân.  Một câu tán thán hoa mai vững vàng trong sương tuyết của Hoàng Bá Hy Vân, câu khằng định  hoa mai là cốt cách của Tố Như,  hay như câu cảm thán  tuyệt vời của Cao Bá Quát …càng thêm  vẹn vẻ trong sáng và đẹp giữa mùa xuân của hoa mai. Để từ bao giờ câu  thi kệ trên giường bệnh của Mãn Giác Thiền Sư lại  trở thành câu chúc tụng nhau trước thềm  xuân mới. Hoa mai, loài hoa hoàng mai phương Nam  rồi cũng sẽ tìm và sánh vai nhau với  hoa mai Yên Tử  giữa mùa xuân của đất nước. Như là đại diện cho hai đầu đất nước : Hoa mai  phương Nam  vững vàng trong nắng hạn, hoa mai Yên Tử vững vàng trong  gió tuyết. Nơi đâu, ai rồi cũng  thấy được  một nhành mai của Mãn Giác Thiền Sư.

 

 

Xuân Canh Tý 2020

Dương Kinh Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2015(Xem: 6453)
Năm Mùi lại sắp đến và ta thường hỏi là tại sao tên gọi là Mùi, không là dê, dương hay vị ...? Phần này đưa ra vài cách nhìn hầu giải thích phần nào các lý do dẫn đến hiện tượng trên. Ngôn ngữ con người biến đổi theo thời gian (âm cổ và âm hiện đại) và không gian (phương ngữ, thổ ngữ, ngữ hệ), thành ra phần này sẽ bàn về các dữ kiện minh xác kết quả trên. Đây cũng là mục đích chính của loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp", phần này tiếp theo bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp – Mùi/Vị - *mjei – Dê (phần 15)". Các bài viết sau nhưng cùng một chủ đề sẽ đánh số với mẫu tự A, B, C… Hi vọng loạt bài này gợi ý và tạo thêm động lực cho người đọc tìm hiểu thêm về tiếng Việt và những liên hệ ngôn ngữ thật thú vị. Các chữ viết tắt trong bài này là LM (Linh Mục), BK (Bắc Kinh),
05/02/2015(Xem: 8275)
Như thường khi, vào những dịp cuối năm với bề bộn lo toan ngày tết mới, tất cả ai ai cũng đều chăm chú vào từng tờ lịch phía dưới của ngày âm lịch mà thường khi ngươi ta ít khi chú ý đến ngoại trừ phải tính các ngày giỗ, thôi nôi hay tang chế.v…v…
05/02/2015(Xem: 6991)
Tết. Một chữ thôi mà sao cũng đủ làm cái cớ lớn để tôi bâng khuâng quá chừng. Tôi đã sống qua chừng đó năm tháng rồi sao? Vậy là tôi sẽ không còn đủ thời gian để tận mắt chứng kiến bao điều sẽ xảy ra trên hành tinh này với những buồn vui khó nói trước...
05/02/2015(Xem: 6819)
Dê sống hoang giã 50.000 năm trước tại: Á Châu, Âu Châu và Phi Châu trên đồi núi nên gọi là wild goat/ Wildziegen. Dê có thân hình dài từ 1,2 đến 1,6m, đuôi dài 15-20 cm, cao từ 0,7 m đến 1m, trọng lượng tùy theo dê đực hay dê cái nặng từ 25 kilô đến 100 kilô. Khoảng 8000 -10.000 trước CN thì loài người bắt dê về thuần hóa thành gia súc như: gà, chó, heo, ngựa, trâu, bò.
05/02/2015(Xem: 4759)
Hằng năm, cứ vào lệ thường đêm giao thừa, thầy trò chúng ta thường tụng kinh phúc chúc an lành cho nhân loại, cho đất nước Việt Nam, cho chư thiên, thọ thần, cho tất cả ân nhân, thí chủ, cho chư Phật tử gần xa và cho cả chúng ta một năm mới tốt lành hơn, an vui hơn.
04/02/2015(Xem: 30153)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
03/02/2015(Xem: 6831)
Xuân về nở nụ chứa chan. Lòng vui rộn rã như đang tự tình. Phiêu linh một chút hòa bình. Cầm tay thiên hạ nói mình rất thương.
03/02/2015(Xem: 6817)
Xuân tràn đầy sức sống Hạt tinh tấn đâm chồi Hoa khiêm cung bi trí Tưới tẩm mầm Thánh nhân. Mỗi ngày hoa đều nở Cúng dường ngôi Tam bảo Tô điểm đạo và đời Xuân phước tuệ trang nghiêm. (Thích Nữ Giới Hương)
02/02/2015(Xem: 11869)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
02/02/2015(Xem: 6908)
Thành tâm kính chúc Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni Quý vị Lãnh Đạo tinh thần các Tôn Giáo, quý Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, cơ quan Truyền thông, các Tổ chức Gia Đình Phật Tử, Thanh Thiếu Niên, Sinh Viên, Học Sinh. Và toàn thể quý Đồng hương, quý Phật tử cùng gia đình, bửu quyến Một Năm Mới tốt đẹp, thân tâm thường lạc, cuộc sống bình an, vạn sự hanh thông, sở cầu như nguyện. Cùng nhau chúc nguyện Thế giới Hòa bình, Nhân loại an vui, tô bồi đạo đức, hy vọng tin yêu, không tranh chấp gây hấn, không khủng bố bạo tàn, thiên tai chấm dứt, nhân họa tiêu trừ, tình người thân thiện, xã hội thăng hoa. Ước vọng cho Việt Nam Tự do, Dân chủ Nhân quyền, An lành pháp trị, Tự hào Lịch sử, Bảo vệ Núi sông, Thắm tô Tổ quốc, Toàn vẹn lãnh thổ Vùng biển vùng trời, Đất liền Hải đảo, Hoàng Sa Trường Sa. Dân tộc Việt Nam được no cơm ấm áo, trân quý Tình Đồng Bào Nghĩa Ruột Thịt, dấn thân phụng sự, xây dựng thái hòa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]