Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mừng Xuân Mới Ảnh Hưởng Cùng Thi Ca

14/12/201809:06(Xem: 4464)
Mừng Xuân Mới Ảnh Hưởng Cùng Thi Ca

ht thich tin nghia

Mừng Xuân Mới
Ảnh Hưởng Cùng Thi Ca

Điều ngự tử Tín Nghĩa



 

 

Nói đến xuân là nói đến cái đẹp, cái tươi mát, trong lành, cái sinh lực của con người ; cho nên rất phong phú trong văn chương Việt Nam dù là bình dân hay bác học. Vì, khi xuân đến là mọi người đều mong ước một vận hội mới, một sinh khí mới, nghĩa là hy vọng có sự đổi thay từ vạn vật đến tâm thức con người. Mỗi khi xuân về là nó thay đổi tất cả mà chúng ta đã thấy khắp đất trời cỏ cây, hoa lá đâm chồi nẩy lộc bừng lên một sức sống mãnh liệt ; không khí ấm áp và tươi mát hẵn lên so với ba mùa khác của xuân, . . .

Xuân về ai cũng mừng Xuân, tuy thế mỗi người đón xuân, mừng xuân, chào xuân hay mong xuân đều có cách riêng của nó ; tùy theo hoàn cảnh, tùy theo tuổi tác và nhất tùy theo trình độ, đặc biệt là những mẫu người có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn.

Từ độ tuổi năm mươi trở về trước, người dân sống trong một hoàn cảnh rất bi đát, chiến tranh triền miên trên quê hương cho cả hai miền Nam Bắc ;rồi thì, tuy thống nhất đất nước nhưng cũng không mấy hân hoan. Gần 90 triệu đồng bào cả hai miền vui vẻ khi đã thấy xóa đi lằn ranh Bến Hải, thấy được sự thống nhất của đất nước, nhưng chẳng vui gì khi hơn một triệu người con dân của mẹ Việt Namvì hai chữ tự do lại phải tìm cái sống trong cái chết, đành lòng gạc lệ ra đi, bỏ lại sau lưng bao nhiêu là thân thương ruột thịt, . . .

Vì thế, Xuân về cũng đã có những câu thơ tuy là biết xuân về hay sắp về mà nghe ra ai oán, não nề đứt ruột, đắng cay thế nào:

Tôi có chờ đâu có đợi đâu,

Mang chi xuân đến gợi thêm sầu,

Với tôi tất cả đều vô nghĩa,

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, . . .

          Những câu thơ như thế đó đã cất lên đầy đau khổ, phiền lụy ; cho nên đối với tác giả của bài thơ này thì Xuân về chẳng hay ho gì cho mấy. . .

          Từ quân chủ qua dân chủ và đến bây giờ chắc cũng không khác nhau chi. Hầu hết dân Việt chúng ta sống theo cổ truyền, sống theo tục lệ, có nghĩa là “xưa bày, nay bắt chước”, “đất lề quê thói” và “phép vua thua lệ làng” . . . . Người dân sống tùy theo niềm tin của mình và tùy theo địa phương, người đi chùa dâng lễ bái, hái lộc đầu năm, một lớp khác thì áo xanh, áo đỏ, nam thanh nữ tú đi chợ tết hay đi xem hội làng tổ chức vui xuân như : Hát bài chòi, đánh đu, đấu vật, kéo dây, . . . ; số người sống theo ước lệ nhân gian thì đi lễ đền hái lộc, xin xăm, bói quẻ để biết hên xui của vận mạng ra sao trong năm mới, . . một số khác tìm đến cụ đồ già ngồi ở gốc đa để xin câu đối theo ý muốn của chính mình hay của gia đình, . . . do đó :

“Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua . . .”.
    
Vũ đình Liên(Ông Đồ)  

Hay vui vẻ như nhà thơ Bàng Bá Lân :

          Tết về nhớ bánh chưng xanh,

Nhớ trang pháo chuột, nhớ tranh lợn gà.

Nhớ cành đào thắm, đầy hoa,

Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang.

Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam,

Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành.

Nhớ cam cúc tết, nhớ mình, . . .

Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì. . . .

Về xa xưa hơn nữa, Thiền sư Mãn Giác (滿覺)(1052-1096), thuộc phái Vô Ngôn Thông đã dạy :

告疾示眾
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅

Cáo tật thị chúng
Xuân khứ, bách hoa lạc,

Xuân đáo, bách hoa khai,

Sự trục, nhãn tiền quá,

Lão tùng, đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn, hoa lạc tận,

Đình tiền, tạc dạ, nhất chi mai.

Dịch

Có bệnh bảo mọi người :

Xuân đi, trăm hoa rụng,

Xuân đến, trăm hoa cười,

Trước mắt, việc đi mãi,

Trên đầu, già đến rồi.

Chớ bảo : Xuân tàn, hoa rụng hết,

Đêm qua, sân trước, một cành mai.

Ngài bảo đời là vô thường. Có đó rồi không đó. Tuy thế, trong cái vô thường vẫn có cái thường nên : . . . “Đêm qua, sân trước, một cành mai.” là vậy. Ý ngài dạy, xuân vẫn về với vạn loại hữu tình cũng như vô tình.Do vậy mà việc cho dù hoa rụng hay hoa cười trong câu :“Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười”, thì cũng chỉ một hiện tượng thay đổi là Vô thường và Thường (chơn tâm thường tại) không có gì sai khác.Tức là ảo mộng nằm trong cái thực hữu và ngược lại cái thực hữu nằm trong cái ảo mộng.

Nói về xuân là bất tận, không bút mực nào tả hết. Vui có, buồn có, tùy theo tâm trạng của mỗi con người. Thật ra thì cảnh không đổi thay nhưng lòng người thay đổi ; do vậy mà Nguyễn Du tiên sinh đã bảo :

. . . “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.” . . .

Ngay như nhà thơ trào phúng khét tiếng của tiền bán thế kỷ thứ 19, nghĩ về cái tết vừa đối, vừa thơ rất trào phúng và tự mãn như sau của Trần Tế Xương :

Nhập thế cục, bất khả vô văn tư ?

Chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài . . .

Huống chi : Mình đã đỗ Tú tài,

Ngày Tết đến, cũng một vài câu đối.

Đối rằng :

Cục nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,

Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.

Viết vào giấy, dán ngay lên cột,

Hỏi mẹ mày : Rằng dốt hay hay ?

Rằng hay : thì thật là hay,

Không hay, sao lại đỗ ngay tú tài ?

Xưa nay, em vẫn chìu ngài !(Trích từ thi tập của Tú Xương).

Còn về thơ tết của Cao Chu Thần(1809? - 1855), chúng ta chỉ biết đến bài thơ chữ Hán, rất nhiều tác giả thời nay dịch theo những thể loại Đường luật hoặc Lục bát sau đây, chúng tôi trích dịch ra đây để biết con người của Cao Bá Quát đã từng nói : Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, riêng ông hai bồ, anh ông là Cao Bá Đạt và Bạn ông là Nguyễn Văn Siêu một bồ, còn từ vua quan sĩ thứ một bồ chia cho nhau. Thơ họ Cao vừa khí phách nhưng cũng vừa trữ tình lãng mạng. Chúng ta thử tìm tòi ý của bài “Xuân dạ độc thư” (Đêm xuân đọc sách) sau đây :








          Xuân dạ độc thư

Kim nhân bất kiến cổ thời xuân,
Trù trướng kim xuân đối cổ nhân.
Thế sự kỷ hà kim bất cổ ?
Nhãn tiền mạc nhận huyễn vi chân.
Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ,
Vô số anh hùng nhất tụ trần.
Tự tiếu tục câu phao vị đắc,
Nhĩ lai huề quyển thái chuân chuân.

Nhà thơ Trương Vĩnh Liệt dịch :

Xuân trước người nay có thấy không,
Xuân nay người trước ngẩn ngơ lòng,
Chuyện đời mấy chốc kim thành cổ ?
Thế sự đừng coi giả hóa chân.
Vô số anh hùng, làn bụi đỏ,
Muôn ngàn danh lợi, bóng mưa xuân.
Cười ta thói tục còn vương víu,
Chưa bỏ đam mê quyển sách cầm.

Lục bát :
Người nay không thấy xuân xưa,
Xuân nay ngơ ngác người xưa đâu rồi ?
Chuyện đời kim cổ đổi vời,
Chớ lầm hư thực thực rồi hóa hư.
Lợi danh như sáng mưa thu,
Anh hùng bao kẻ mịt mù trần ai.
Cười mình tật cũ khó phai,
Quơ nhằm quyển sách miệt mài thâu canh . . .(Do Đức dịch)

Cho nên Xuân đến không hẵn ai cũng vui cả. Bởi thế nhà thơ Chế Lan Viên (Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1920 nhằm ngày 12 tháng 9 năm Canh Thân,quê gốc ở Cam Lộ, Quảng Trị),đã thương tiếccho cái quốc phá giavong của nước Chàm, mặc dầu nhà thơ là người Việt :

Huyền Trân ơi ! Huyền Trân ơi Huyền Trân,

Mùa Xuân, mùa Xuân, mùa Xuân rồi,

Giờ đây tám vạn bông trời nở,

Riêng có lòng ta khép lại thôi.

Khi đất nước còn điêu linh, còn tang tóc chiến tranh giữa hai miền. Những chàng trai thời loạn phải ra đi vì trách nhiệm đối với sự an nguy của đất nước, không thể cùng gia đình để chung hưởng một cái tết trọn vẹn, đầm ấm có đầy đủ người thân ; những chàng trai ấy phải đêm đêm ôm súng gác rừng cùng đồng đội, bởi thế nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân đã viết lên lời ca “Xuân nầy con không về” và ca nhạc sĩ Duy Khánh đã phải thổn thức :

. . . “Con biết xuân nầy mẹ chờ em trông,

nhưng nếu con về bạn bạn bè thương mong,

bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường,

không lẽ riêng mình êm ấm,

Mẹ ơi con xuân này vắng nhà.”.

Nét xuân qua văn thơ, ca nhạc của các cụ xưa và nay thì rất nhiều, chúng tôi không thể trích ra đây để cống hiến cùng độc giả, kính xin được khép lại để có một vài ý nghĩ về xuân tha hương.

Riêng ở hải ngoại, con dân Việt tìm đất sống vùng tự do sau tháng tư đen 1975 không nhiều ; tuy thế, qua hình thức đoàn tụ với gia đình, đi theo diện con lai, diện nhân đạo HO và vân vân, tính đến bây giờ riêng tại xứ cờ Hoa hơn một triệu rưởi.

Hằng năm xuân về, tức ngày Tết âm lịch của Á đông mà đa số là Việt Nam và Trung Quốc. Riêng Việt Nam thì rầm rộ hơn nhiều. Các Cộng Đồng Người Việt của các tiểu bang, tùy theo dân số (người Việt sinh sống) nhiều hay ít đều có tổ chức chung và thể thức vui xuân cũng như quê nhà, nhưng không đồng đều và vui nhộn như ở quê nhà.Không khí không mấy đậm đà lắm, vì một đôi khi Cộng Đồng tổ chức tết mà cũng có những dị biệt thế này thế nọ, thậm chí có những lời lẻ không mấy hay ho, đã vậy, vui xuân trong ngày cuối tuần, có khi ra tết đã gần hơn một tuần mới có Hội Xuân;Chỉ có tôn giáo mới có lễ Giao thừa, đặc biệt là các chùa, hội Phật giáo. . . .

Những áng thơ nói về xuân ở hải ngoại rất ít xuất hiện, có chăng thì ở trong các Tập san hay Đặc san của các tổ chức Tôn giáo hay Cộng đồng ; do vậy, chúng tôi cũng chưa phối kiếm rõ ràng nên cũng chưa dám đưa vào bài viết này.

Nhơn đây, chúng tôi mượn lời thơ của cụ Vị Xuyên Trần Tế Xương (1870-1907), một nhà thơ trào phúng, sống buổi giao thời, gặp nhiều bất bình. Ông đã bất bình trong cảnh nước mất nhà tan, bất bình trong chốn trường thi khoa cử, buổi giao thời giữa cổ kim, bất bình trước thực tại và lý tưởng, . . . Ông ngao ngán cho thế cuộc quốc phá gia vong mà ngậm ngùi thốt lên :

Ta lại cùng nhau gặp gỡ xuân,

Xuân đi, xuân lại biết bao lần ?

Xuân ơi có hiểu cho chăng nhỉ !

Giương mắt mà xem cuộc chuyển vần !

Để rồi ông khuyên :

Cũng như ai, ta chúc mấy lời,

Chúc cho hết thảy khắp trong ngoài,

Vua, quan, sĩ, thứ : người muôn nước,

Sao được cho ra “Cái giống Người.”.

Cuối cùng, nhà thơ Xuân Diệu đã nhận thức sự phủ phàn của nhân thế, con người đang quay cuồn trước làn sống chủ nghĩa cá nhân về tiền bán thế kỷ 20 của Việt Nam chúng ta. Thiên đường không còn nữa, lẽ sống bấp bênh, tương lai thì mờ mịt, nên ông đã cất lên :

Xuân đang đến, nghĩa là xuân đang qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Và xuân hết, thì đời tôi cũng mất.

 

Kính chúc độc giả vui xuân theo ý nghĩa của chính mình và đầy an lạc.

 

 

 



Quý đông Mậu tuất, Jan. 01, 2019.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2020(Xem: 3879)
Tiễn bác Trư, đón chào Thiên kim Canh Tý, Xin đừng mang virus đến chốn này Nước Úc thiên tai mãi cứ bám ...dai Mong ước 0 giờ này ...đổi thay chuyển hướng... Giờ hoàng đạo, chúc người người an hưởng , Năm tràn đầy tình đoàn kết tương thân. Chung sức đắp xây xã hội “ Nhật, Nhật Tân “... Mời ... Chúa Xuân Canh Tý vào thư phòng khai bút !
24/01/2020(Xem: 8334)
Chiều cuối năm lướt thơ Xuân qua mạng, Vẫn tập tục truyền thống … nhắc đến Mai Bánh chưng xanh hương vị …chẳng đổi thay ! Bao thương nhớ gợi về gia phong nếp cũ …
22/01/2020(Xem: 3496)
Thêm một mùa Xuân chốn viễn phương Nhớ về quê cũ trắng canh trường! Tháp xưa chuông sớm luôn vang tiếng Chùa cũ trầm khuya mãi ngát hương. Thi hứng gợi tình ghi mấy khúc Văn nguồn khơi ý thảo vài chương Thả hồn theo tuyết rơi song vắng Viễn xứ lòng người rộn luyến thương.
22/01/2020(Xem: 3907)
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy chăm tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh. Đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có tình thương. Phương châm tu tập của Phật Giáo là từ, bi, hỷ, xả. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Bốn món tâm rộng lớn không lường được nói trên nếu của Phật và các vị Bồ tát thời được xưng là “Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả”.
22/01/2020(Xem: 4070)
Ta chợt nghe mùa xuân đang mời gọi, từng đàn én lượn khắp cả bầu trời xanh, từng cụm mai vàng đang đơm hoa kết nụ khoe sắc lung linh, chúng vẫy chào để hiến tặng một chiều xuân. Năm Kỷ Hợi dần đang đi qua, chuyển giao chào đón năm mới Canh Tý khiến bao người xa xứ luôn hướng tâm tư tình cảm về quê hương trào dâng nỗi nhớ khắc khoải trong từng khoảnh khắc. Một năm hành mộc, đầy sự biến thiên của cuộc sống: bão tuyết tại xứ Mỹ, cháy rừng ở Úc châu, máy bay rơi tại xứ Iran, chiến hưởng vùng địa đàng tâm động đến lửa cháy từ nội tâm tham giận, thù hằn, si mê, bạo hành trong vùng tâm thức, chúng cứ đố kỵ nhau, chẳng ai chịu buông đi cái tôi nhỏ bé. Một năm hành mộc, chúng thiêu đốt đi tính chất nghèo hèn, thiêu đốt tính thù vặt lẫn nhau, khiến cho năm Kỷ Thuộc cung thứ tư trong vận hành sinh tử, chữ Kỷ thuộc trong 10 can chi nên chúng gặp chữ Hợi thuộc thứ 12con giáp, hải khiến cho Bình đại mộc bốc hỏa, nên thiên tai có cơ hội hà
22/01/2020(Xem: 3276)
MÃI CÒN KỲ VIÊN Sinh Trung hòa với đất trời Đón mùa Xuân mới sáng ngời đạo tâm Vô thượng diệu pháp thậm thâm Kỳ Viên rợp sắc Hương trầm tỏa bay Hoa khai kiến Phật hiển bày
22/01/2020(Xem: 3745)
Phật giáo và ngôn ngữ Hoang Phong Đức Phật thuyết giảng cách nay đã hơn 2500 năm, và có lẽ chúng ta cũng muốn biết là Ngài đã sử dụng ngôn ngữ nào? Tất nhiên là Ngài đã thuyết giảng bằng tiếng mẹ đẻ của Ngài, bằng ngôn ngữ của quê hương Ngài. Vào thời bấy giờ, dân cư thưa thớt, thôn làng cách biệt, thị thành xa xôi, phương tiện di chuyển hiếm hoi, mỗi nơi một thổ ngữ. Quê hương của Đức Phật có một ngôn ngữ riêng, bộ tộc của thân phụ Ngài có một thổ ngữ riêng, và quê hương đó, bộ tộc đó cũng chỉ bé xíu trong thung lũng sông Hằng. Các ngôn ngữ thời bấy giờ đã trở thành cổ ngữ hay tử ngữ, không còn mấy ai biết đến, thế nhưng Giáo Huấn và tư tưởng của Ngài ngày nay đã tỏa rộng trên khắp hành tinh này. Điều đó cho thấy phía sau những lời giảng của Đức Phật còn có những gì khác vượt lên trên ngôn ngữ, đó là các Sự Thật trong Giáo Huấn của Ngài và tình thương yêu chúng sinh trong lòng Ngài..
22/01/2020(Xem: 4476)
Khi nói đến mùa xuân ai cũng đều nói đến hoa mai. Bạch mai hay hoàng mai cũng đều được thừa nhận là loài hoa của mùa xuân, đại diện nhiều hương sắc khác trong vườn hoa dân tộc để khắc thêm đậm ý nghĩa mùa xuân. Điều này dược xác nhận rất nhiều, đặc biệt trên văn đàn và thơ nhạc. Do vậy không phải ngẫu nhiên mà Cao Bá Quát ( 1809 – 1855 ) hạ bút như một xác nhận bên cạnh nỗi lòng thế sự : Mười năm giao thiệp tìm gươm báu Một đời chỉ cúi trước hoa mai.
22/01/2020(Xem: 4365)
Mười hai tháng của năm 2019 - Kỷ Hợi, đã tuần tự trôi qua, theo sự biến thiên tuần hoàn hết ngày lại đêm của quả địa cầu. Mười hai mùa Trăng tròn khuyết, cũng như tâm cảm buồn vui, thân oán của hữu tình và sự thăng trầm trong cuộc sống. Dù là sự vận chuyển như thế nào chăng nữa. Chúng ta cũng phải tiếp nhận chào đón một năm mới theo chu kỳ vận hành của thời gian.
22/01/2020(Xem: 3456)
Xuân Xanh Một phiến thanh xuân tỏa ngát trời Choàng lên vạn pháp sắc xanh tươi Hài nhi trở giấc môi cười mỉm Lão trượng hồi qui bước thảnh thơi Nheo mắt ngắm nhìn sông núi hiện Hằng nhiên lưu chuyển áng mây trôi Nhân gian hiển thị muôn hình tướng Duy ánh trăng xưa chẳng đổi dời! Khánh Hoàng Plano _ Jan 21, 2020
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]