Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nụ cười của tuệ giác Mùa Xuân

20/01/201104:31(Xem: 4630)
Nụ cười của tuệ giác Mùa Xuân

NỤ CƯỜI CỦA TUỆ GIÁC MÙA XUÂN
Trần Kiêm Đoàn

phat-dilac-content"Nụ cười cũng có nội dung riêng của nó, nhất là nụ cười Việt Nam không phải rằng, "cái gì cũng ‘hì’ là xong chuyện" như cách nhìn của Nguyễn Văn Vĩnh ngày xưa..."

Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một dòng chảy miên viễn như thế. Bỗng có một vị sơn tăng - như Thiền sư Mãn Giác chẳng hạn - huơ tay, mỉm cười, tầm nhìn hướng ra ngõ vắng đầy sương, ánh mắt bắt gặp một cành mai hôm trước: "Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!". Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Hôm qua sân trước, một cành mai. Mai nở sớm hay mai cũ của mùa xuân năm trước là câu hỏi theo cái nhìn cảm giác đời thường. Nhưng với nét nhìn của một thiền sư còn quán niệm về vạn pháp hư huyễn đang xoay vần thì đó chẳng phải là cành mai hình tướng mà là cành mai thể tánh. Mai nở thông qua cái nhìn tuệ giác - Tuệ giác mùa xuân.

Như ngày xưa, cụ nghè Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến cũng nhìn thấy: "Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào?!". Nhưng đây là cái nhìn thông qua cảm giác, cảm xúc. Có người hỏi: "Văn chương tự cổ vô bằng cớ. Văn chương từ xưa là sản phẩm của cảm xúc nên không có bằng cớ gì cả. Vậy thì căn cứ vào đâu để nói Nguyễn Khuyến không là một thiền sư như Mãn Giác?". Chỉ có một sự khác nhau rất nhỏ. Thiền sư Mãn Giác nhìn vạn sự qua nét nhìn tĩnh lặng mà như xoáy vào nhịp biến dịch thành trụ hoại không. Cụ nghè Nguyễn Khuyến nhìn đối thể với sự hồ nghi chất vấn. Còn hồ nghi sẽ thiếu vắng một nụ cười.

Nụ cười, tuệ giác và mùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc. Theo niềm tin và tín lý nhà Phật thì có ba đời, mười phương Phật. Có hằng hà sa số chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật của thời hiện tại trong cõi Diêm Phù Đề mà chúng ta đang ở. Đức Phật tương lai của cõi người này sẽ là Phật Di Lặc (Maitreya: Gốc chữ Phạn Maitri, có nghĩa là từ bi, an lạc) là một vị Đại Bồ tát đang ngự ở cung trời Đâu Suất. Qua lăng kính Đại thừa của Phật giáo Trung Hoa, Phật Di Lặc trở thành biểu tượng của sự hoan hỷ, sung mãn, hạnh phúc. Chỉ riêng trên đất Trung Quốc từ thế kỷ thứ III đến nay đã có tới con số hàng trăm nhân vật theo Phật giáo xuất gia và tại gia tự xưng là "hiện thân của Phật Di Lặc" giáng trần. Nhưng tất cả con người và vụ việc đều đến rồi đi như những hiện tượng chiến tranh, dịch họa.

Tuy đạo Phật có nhiều bộ phái và pháp môn khác nhau, nhưng hình ảnh Phật Di Lặc vẫn trở thành một ước vọng chung tràn đầy niềm vui và hạnh phúc ở chân trời tương lai. Đức từ bi của Phật Di Lặc được biểu hiện qua nhiều hình tướng khác nhau, tương hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội, bản chất con người và đặc tính văn hóa của từng xứ, từng vùng.

Qua những tượng đài và kinh văn Ấn Độ thì Phật Di Lặc là hiện thân của từ bi và trí tuệ trầm tư. Với Tây Tạng, Tích Lan thì Phật Di Lặc là hóa thân của sự tái sinh an lạc và huyền nhiệm. Nhưng tới đất Trung Hoa thì Phật Di Lặc là biểu trưng của sự hoan hỷ, phong phú, mãn nguyện với nụ cười khoan khoái, sắc diện béo tròn, thân đầy, bụng phệ, lúc nào cũng sẵn lòng dang tay đón nhận mọi người. Hình tướng Phật Di Lặc ở Việt Nam thì gần như là bản sao của Trung Quốc. Cũng là nụ cười Di Lặc, nhưng văn hóa "cung hỷ phát tài" của Trung Quốc làm mất đi tính chất tuệ giác của sự mơ ước tâm linh. Nhiều nơi lẫn lộn giữa Phật Di Lặc và ông Thần Tài. Thậm chí, khi mang ảnh tượng Đức Di Lặc của Việt Nam và Trung Quốc sang các nước Âu Mỹ thì trở thành những ông Phật Mập (Fat Buddha), Phật Cười (Happy Buddha) hay Phật Phát Tài (Lucky Buddha)… đặt sau vườn làm cây kiểng!

Thật ra, Đức Phật Di Lặc là dấu chỉ nói lên niềm hy vọng thường an lạc, là biểu tượng mong cầu cho một tương lai thịnh vượng, tươi sáng nên đời có bao nhiêu niềm ước mơ tốt đẹp thì sẽ có bấy nhiêu mẫu hình tướng của Ngài. Nhưng nếu có chăng điều quan ngại thì nó sẽ không dừng lại ở mức độ hình tướng mà ở tác dụng của phương tiện. Nếu nụ cười "niêm hoa vi tiếu" của Ca Diếp là sự khai mở của tuệ giác, nhìn đóa sen trên tay Phật mà thấy hết tánh sen là tánh Phật; thấy ngó sen đang ở trong bùn vẫn theo dòng sinh diệt, lặng lẽ nhô lên khỏi mặt nước và có ngày nở rộ tỏa ngát hương thì nụ cười Di Lặc cũng sẽ "đồng nhất thể" tương ưng như thế. Đó là một nụ cười rất đẹp và trọn lành không phân biệt Bố Đại Hòa thượng hay thằng Bờm lưu truyền trong dân gian.

Càng ngày, những nước văn minh Âu Mỹ càng nghiên cứu sâu rộng để tiếp nhận và trân trọng tinh thần phá chấp, từ bi và hóa giải của đạo Phật. Nhưng khác với người phương Đông, người phương Tây không còn ảo tưởng về vai trò "cứu rỗi" vô điều kiện của tôn giáo. Bởi vậy, họ tìm đến đạo Phật như một triết lý và một nghệ thuật sống. Họ tìm đến cái đẹp của Phật giáo không phải qua hình thức lễ nghi, bái vọng với một tâm lý đột phá những vòng trói buộc của tín điều và tín lý. Họ đánh giá chân xác suối nguồn tuệ giác của Đức Phật Thích Ca và biết ơn nụ cười Di Lặc hiện diện trong một xã hội kỹ nghệ phương Tây quay như chong chóng. Họ cũng tin rằng, một Đức Phật tương lai sẽ đến như một sự tái khẳng định nếp nghĩ, lối sống hòa bình, an lạc và trí tuệ chứ không phải là để "tái sáng thế" đầy huyền nhiệm và bí ẩn của nếp tâm linh cổ sơ.

Nếu quan chiêm những ảnh tượng của Phật Di Lặc trong những chùa viện Phật giáo phương Tây ngày nay, người ta sẽ thấy toát lên vẻ đẹp đầy nghệ thuật phảng phất hay rõ nét nụ cười toát ra từ bên trong. Những ảnh tượng Di Lặc với ngoại hình đầy hoan hỷ đậm nét "thỏa thuê trù phú" trong các chùa viện Việt Nam mô phỏng như thường thấy bấy lâu nay hay chỉ là phiên bản của Trung Quốc đang mất dần tác dụng giải thoát tâm linh trong thời đại mới. Nụ cười cũng có nội dung riêng của nó, nhất là nụ cười Việt Nam không phải rằng, "cái gì cũng ‘hì’ là xong chuyện" như cách nhìn của Nguyễn Văn Vĩnh ngày xưa. Nụ cười của người Việt vừa là một khí cụ để diễn đạt cảm xúc, vừa là một vũ khí chống đỡ của tâm hồn. Nụ cười mang dấu ấn văn hóa chuộng phát tài của nếp sống thương mãi Trung Quốc không thể mặc nhiên "bê nguyên" vào văn hóa Việt Nam mà không cần cải biến, chắt lọc được.

Từ nhu cầu tìm nụ cười mùa Xuân đầy tuệ giác của "Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật", một nhu cầu cấp thiết hơn lại hiện ra cho Phật giáo Việt Nam trong thời đại mới. Đó là nhu cầu thuần Việt hóa kinh điển Hán tạng.

Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ cả hai phía: Phía Bắc từ Trung Hoa tràn xuống; phía Nam từ Ấn Độ truyền sang từ thời kỳ đầu Công nguyên. Kinh điển Phật giáo viết bằng chữ Hán thì tạm gọi là Hán tạng và bằng chữ Phạn là Phạn tạng. Nhưng giới trí thức và đại chúng đương thời lại đã quá quen thuộc với chữ Hán mà hoàn toàn xa lạ với chữ Phạn. Do vậy, kinh điển Hán tạng chiếm vị trí độc tôn, trong khi Phạn tạng bị lu mờ và quên lãng. Từ buổi đầu du nhập, chuyển ngữ duy nhất của kinh điển Phật giáo Việt Nam là tiếng Hán Việt. Đối với đại chúng Việt Nam, chín mươi lăm phần trăm không có điều kiện học chữ Hán nên tiếng Hán Việt cũng chỉ là một ngoại ngữ không hơn không kém. Số kinh điển chữ Hán dịch tiếng Việt dưới dạng chữ Nôm quá hiếm hoi và tiếng Việt theo mẫu tự La Tinh được xem là Quốc ngữ như ngày nay thì vừa muộn màng vừa giới hạn. Tình trạng kinh điển Phật giáo bị pha trộn tiếng Hán Việt xen lẫn với tiếng thuần Việt vẫn tồn tại, nếu không nói là quá phổ biến trong lễ nghi Phật giáo Việt Nam hiện nay trong cũng như ngoài nước. Thậm chí, trong một số chùa chiền tu viện, nhiều Phật tử xuất gia cũng như tại gia, thế hệ trẻ cũng như thế hệ cao niên, xem việc đọc tụng nguyên văn âm Hán Việt là dấu hiệu của sự "chính danh, uyên bác" về đạo Phật!

Hệ lụy trực tiếp của tinh thần dính mắc, phụ thuộc vào kinh điển Hán tạng là tình trạng đọc tụng quá "tùy nghi" - nếu muốn tránh hội từ "lổn nhổn và tùy tiện" - mỗi chùa có một kiểu nghi thức tụng niệm riêng và mỗi thầy hay sư cô chủ lễ theo một dạng bài bản riêng. Thực trạng này đang đưa đến sự thiếu thống nhất và quy củ trong nghi thức hành lễ, làm cho đại chúng hoang mang và tuổi trẻ xa rời chùa chiền.

Trong khi một số chư tôn đức và hàng cư sĩ thiện tri thức nhiệt thành kêu gọi những công trình to tát như "chấn hưng Phật giáo", thành lập "Hội đồng dịch Đại tạng kinh bằng những chương trình vi tính hiện đại" thì ba nghi thức tụng niệm cơ bản nhất trong lễ nghi hàng ngày của Phật giáo Việt Nam là: Nghi thức Tịnh độ, nghi thức Cầu an, nghi thức Cầu siêu vẫn còn trong tình trạng so le, khác biệt; câu Nho, câu Việt "đề huề" để đọc tụng riêng trong mỗi chùa hay từng đạo tràng.

Bên cạnh đó, môi trường truyền thông đại chúng trong hai mươi năm qua đã vượt quá 50 lần về độ nhanh, về khối lượng, về sức mạnh thẩm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống con người. Người Phật tử càng có nhiều cơ hội tương ứng để tiếp cận và học Phật với nhiều pháp môn và bộ phái Phật giáo từ Âu sang Á. Câu hỏi nổi bật nhất của người Âu Mỹ khi tiếp cận với Phật giáo Việt Nam là: "Đâu là sự khác biệt giữa Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Việt Nam?". Về cả ba ngôi Tam bảo, Phật - Pháp - Tăng, thật khó phân định sự khác biệt "Nam quốc sơn hà…" giữa ta và Trung Quốc. Ảnh tượng, kiến trúc, kinh sách, ngôn từ, lễ nghi, pháp phục, pháp khí… của Phật giáo Việt Nam rất gần với một phiên bản của Phật giáo Trung Quốc. Các bài giảng pháp chỉ đơn giản làm công việc giảng văn, minh họa những bài bản của kinh điển Trung Quốc.

Trước mùa xuân Di Lặc đầy hứa hẹn, người Phật tử trung bình nhất cũng có điều băn khoăn khi có cơ hội tham dự sinh hoạt giữa hai nguồn Phật giáo mà rõ nét nhất là đi "chùa ta", "chùa Tàu" ở Hoa Kỳ.

Năm mới, trước bàn thờ và trong nhang trầm ngày Tết, nếu có chăng một hướng nhìn với tấm lòng ước nguyện sự hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam thì nên dành ưu tiên cho một sự suy nghĩ và đóng góp về tương lai văn hóa Phật giáo thuần Việt, đậm bản sắc dân tộc hơn hiện tại. Chẳng tới đâu với những cái nhìn cau có về nhau. Nhưng sẽ vươn tới được những phương trời cao rộng khi nhìn về tương lai đạo Phật Việt Nam thuần túy hơn với nụ cười Di Lặc của tuệ giác mùa Xuân.

Trần Kiêm Đoàn




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2016(Xem: 4973)
Thông Bạch Xuân Bính Thân 2016
07/01/2016(Xem: 5099)
Nước kia có một ông vua Vốn ham việc lạ, lại ưa chuyện đùa Tuổi vua bẩy chục có thừa Một hôm cao hứng nhân mùa đầu Xuân Vua truyền lệnh khắp xa gần Từ quan cho chí tới dân hay rằng Nhà vua ban thưởng ngàn vàng Cho ai dạy khỉ nói năng như người. Các quan phải dự cuộc chơi Cố công tìm khỉ các nơi đưa về Quan nào dạy khỉ lành nghề Thưởng vàng, tăng chức đôi bề vui thay!
06/01/2016(Xem: 6017)
Thành tâm kính chúc Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni Quý vị Lãnh Đạo tinh thần các Tôn Giáo, quý Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, cơ quan Truyền thông, các Tổ chức Gia Đình Phật Tử, Thanh Thiếu Niên, Sinh Viên, Học Sinh. Và toàn thể quý Đồng hương, quý Phật tử cùng gia đình, bửu quyến Một Năm Mới tốt đẹp, thân tâm thường lạc, cuộc sống bình an, vạn sự hanh thông, sở cầu như nguyện.
04/01/2016(Xem: 6207)
Chùa Phổ Từ Mừng Xuân Bính Thân 2016
01/01/2016(Xem: 4408)
Hoa màu rực rỡ đón xuân sang Đinh Dậu Xuân Niên đến rộn ràng Cùng nhau lễ Phật mừng năm mới Hương vàng Quảng Đức nguyện an khang.
01/01/2016(Xem: 9709)
* Chủ Nhật 31.1. 2016 nhằm ngày 22 tháng Chạp . - 11:00 Lễ Cúng Tất Niên, Thượng Niêu, Cầu An, Cung tiến Chư hương Linh. * Chủ Nhật 29 Tết nhằm 7.2.2016 - 11:00: Cúng Ngọ Phật. Cúng Tiến Chư Giác Linh, Chư Hương Linh. - 17:00: Cúng Thí Thực. - 20:00: Lễ Sám Hối cuối năm. - 21:30:Văn Nghệ Mừng Xuân - 23:00:Lễ Trừ Tịch (Giao Thừa Đón Xuân Bính Thân)
28/12/2015(Xem: 5534)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào dòng tâm tưởng của tuyệt đại đa số những người đệ tử Phật, và cả những con người trong nhân gian một khi mưu cầu hạnh phúc, sự bình yên an lành trong cuộc sống giữa đời thường nầy. Điều mà mọi người chúng ta có thể cảm nhận được rằng : mỗi lúc, mỗi nơi khắp cả hành tinh địa cầu mà chúng ta đang có mặt, càng chuyên chở nhiều hơn, càng nặng nề hơn, phức tạp hơn… từ số lượng dâng cao của con người, thì mọi nhu cầu cung ứng cho sự sống cũng phải được lo toan dàn trải về mọi việc, mọi phía để nhằm phục vụ cho sự phát triển mật độ ấy.
23/12/2015(Xem: 5228)
Tiết trời những ngày cuối Đông, trong ánh hoàng hôn lịm tắt luôn để lại trong tôi nhiều nỗi niềm miên viễn, xa xăm. Đó cũng là lúc chúng ta – những người con dân đất Việt với truyền thống bốn ngàn năm văn hiến và cội nguồn hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam, chuẩn bị đón chào TIẾT XUÂN DÂN TỘC rực rỡ. Khi đó, cành mai xưa vẫn hiện diện đường hoàng trong mỗi căn nhà, ngoài ngõ, góc phố, những nơi còn tự biết nhận mình thuần Việt. Tất nhiên là như thế bởi vì Mãn Giác Thiền Sư ( 1052 – 1096) đã khẳng định với các thế hệ ngàn sau bằng hai câu kệ cuối của bài “Cáo Tật Thị Chúng” rằng “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai” mà bây giờ ai ai cũng đều thuộc nằm lòng.
26/10/2015(Xem: 9212)
Chữ MAI, có nhiều nghĩa nhưng, nghĩa riêng của nó là buổi sáng sớm tinh sương, thường gọi là sớm mai, chỉ cho một ngày mới sau một đêm dài tăm tối. Từ cụm từ sớm mai, được chuyển sang để chỉ cho một loài hoa nở vào sáng sớm mùa xuân sau những ngày, tháng đứng im, rụng lá trong mùa đông giá buốc, tự nảy lộc, ra hoa nên gọi là hoa Mai.
01/10/2015(Xem: 7595)
Đầu năm Cúng Hội Cầu An Nguyện cho Quốc thái Dân an mọi nhà Nhân sinh yên ổn hoan ca Xã hội tốt đẹp kết hoa tình người Đi đâu cũng thấy vui tươi Đến đâu cũng thấy nụ cười hỷ hoan Hòa trong năm mới điểm son Hoa khoe sắc thắm lá non đơm chồi Làm lành phước đức lên ngôi Lánh dữ nghiệp ác xa rời trần lao
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]