Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bếp Chùa (truyện ngắn)

20/12/202414:19(Xem: 518)
Bếp Chùa (truyện ngắn)



cong qua-2024



  TRUYỆN NGẮN 


BẾP CHÙA
Đồng Thanh





Sáng hôm nay Hiền vẫn về Tu Viện như thường lệ, trời mùa đông Melbourne từng làn gió hắc hiu mang theo hơi lạnh rít từng hồi thấm sâu vào da thịt,

trên thềm cỏ vẫn còn giọt nước sương đêm chưa tan dù mặt trời đã tỏa nắng, Gió thổi nhẹ khiến cho nhành liễu trước tượng đài Bồ Tát Quan Âm đu đưa như bàn tay đang vẫy gọi. Xoa mạnh hai lòng bàn tay nóng lên rồi đưa lên má vài lần cho ấm, Hiền bước vào Tu Viện.

- Dạ bạch Thầy!

Vị Sư phụ tháo cặp kiếng dày cộm đưa tay dụi mắt nở nụ cười hiền từ.

- Hiền đấy con? Hôm nay con không đi làm sao?

- Dạ hôm nay hãng con đóng nên con về Tu Viện làm công quả

- Vậy à! Con giúp thầy nhỏ cỏ trong những chậu hoa xung quanh Tượng Đài

- Dạ mô Phật !

Và như thế mỗi khi nghỉ làm hoặc cuối tuần Hiền đều về Tu Viện phụ giúp công quả và nghe thầy giảng. Từng khóm hoa hồng, hoa lan như gởi gắm nỗi niềm người con xa quê khi phải theo chồng qua xứ này. Hiền xuất thân miền Trung, quanh năm lam lủ ruộng nương nên mỗi khi về Tu Viện chăm sóc sân vườn không làm Hiền mệt nhọc.

- Hiền con! Hôm nay có mấy cô, mấy chị về Tu Viện nấu ăn cho khóa tu cuối tuần, con phụ dưới bếp giúp thầy!

- Dạ bạch Thầy!

Hiền nhớ như in ngày đầu tiên vào phụ bếp. Lúc đó có cô Trang khoảng 60,61 tuổi gì đó, Cô gốc Quảng Nam, qua Úc lâu rồi nhưng vẫn nói tiếng Quảng Nam đặt trưng, nhiều lúc cô nói những từ nghe thật ấn tượng đến dễ thương:

- “Không lòm thì thôi đừng lèng nhèng, hay tét giùm cô bếp lửa, con eng đi cô không eng…”

 

Cô là bếp chính trong Tu Viện và cũng là người quản lý khu vực nhà bếp. Mỗi kỳ lễ lớn một tay cô chỉ đạo sắp xếp, chị em chúng tôi gồm chị Mai, chị Lan, chị Cúc, chị Trúc, chị Thắm, chị Duyên…và tôi ai nấy đều răm rắp làm theo.

Tu Viện mỗi tháng tổ chức tu Bát Quan Trai một lần vào ngày chủ nhật và mỗi cuối tuần Phật tử đều về tu học, những lúc đó Hiền đều tham dự đều đặng, vừa làm công quả phụ cô Trang, vừa nghe thầy giảng Pháp. Thường thì nhà bếp rất bận rộn vì phải chuẩn bị cơm cho kịp giờ thọ trai nên không có thời gian lên chánh điện tụng kinh cũng như nghe Pháp, nhưng Hiền vẫn nghe tiếng thầy giảng vì dưới bếp được truyền âm thanh bằng một cái loa nhỏ nên vừa làm việc vừa nghe tụng kinh và từng lời giảng của thầy Hiền và mấy chị nhà bếp vẫn nghe được.

Chiều hôm nay sau giờ hành trì, cô Trang và mấy chị em chúng tôi được thầy kêu lên chánh điện nghe thuyết Pháp, những lời Pháp nhẹ nhàng gần gủi thắm đượm tình thầy trò. Thầy dạy:

 

- Quý Phật tử biết không? Phàm là người con Phật chúng ta đến đâu và làm gì đều phải quán chiếu việc ta đang làm như một phép tu để chuyển đổi tâm tính của mình. Chẳng hạn như buổi ngọ trai hôm nay nhà bếp cho chúng ta món canh rau Tần Ô nấu với nấm tươi, quý vị có cảm nhận gì không ? Vị của nó ngọt, hương rau thơm nhẹ, khi ăn cảm giác ngọt lịm trong cổ. Điều này cho ta hiểu được khi chúng ta cùng làm việc chung trong một Đạo tràng, không chống trái đố kỵ lẫn nhau, cái này tôi biết tôi chỉ Chị chưa biết, món này em nấu ngon hơn em dạy cho Chị. Tất cả đều dung hòa chia sẻ cho nhau, có như vậy thì nấm nào cũng ngọt, rau nào cũng thơm, cho đến khi ta rời khỏi bếp tâm ta mát mẻ nhẹ nhàng, sắc diện ai cũng đỏ hồng như bếp lửa. Như vậy ta đã đạt được không gian lạc trú và hiện Pháp lạc trú trong tinh thần Thiền học, chúng ta có thể giải thoát khi chúng ta bắt đầu bật lửa. Giải thoát nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải tháo gỡ toàn bộ tâm cố chấp, buông bỏ hết tham lam, bỏn xẻn. Lửa có công năng thiêu đốt tất cả, vậy ta nên quán chiếu ngọn lửa này sẻ thiêu cháy toàn bộ sự phẫn nộ, sân si để rồi đem đến nhịp sống an hòa trong tình Đạo bạn. Quý vị thấy đó! Nếu biết dùng con mắt tuệ giác quán chiếu thì trong gian bếp chứa đựng cả một thư viện kinh sách với vô vàn lời dạy minh triết từ Đức Phật.

Hiền ngồi yên, mắt luôn nhìn hình ảnh người thầy tôn kính, với vẻ mặt hiền từ dung dị, âm thanh nhỏ nhẹ, lời Pháp đơn giản dễ hiểu rót từng hồi vào tận tâm cang khiến cho Hiền xúc động, không ngờ những công việc tưởng chừng đơn giản trong bếp mà hôm nay thành những bài Pháp vi diệu. Có khi nào ý nghĩa câu: “Vô thượng thậm thâm vi diệu Pháp” cũng chỉ từ đây mà ra? có lẻ là như vậy! Vì Pháp vi diệu là Pháp khi ta thực hành thấy có sự an lạc, nghĩ là nghĩ vậy thôi! Chắc khi nào mạnh dạng hỏi thầy mới được!

 

Chiều hôm ấy trên con đường về nhà từng hàng cây bạch đàn hai bên đường cành lá vẫn sum suê cho dù đang chịu cái rét mùa đông, Hiền vừa lái xe vừa tự chiêm nghiệm những gì mà ngày nay mình học được từ Thầy, hãy nhìn những gì ta thấy và ta đang làm bằng lăng kính người học Phật thì tất cả đều nhẹ nhàng thanh thoát, không vướng bận những hệ lụy bởi tâm cố chấp trói buộc, tất cả đều được tự nhiên theo sự vận hành của vạn sự vạn vật, có như vậy tâm ta luôn nhẹ nhàng an vui, cuộc sống luôn nảy nở những điều tốt đẹp thánh thiện, cho dù nơi quê người có muôn ngàn gian khổ, giống như cây Bạch đàn kia cành lá vẫn tốt tươi dù đông về gió lạnh.

Thời gian trôi qua biết bao nhiêu lần lá thu phong bên đường rơi rụng, bao nhiêu lần xuân đến rồi đi, bao nhiêu lần gian bếp chùa chứng kiến biết bao nhiêu chuyện của những người mới và cũ. Hiền vẫn còn đó trong công việc của mình, bảy năm cho một chặng đường nơi xứ Úc, bảy năm trong công việc nơi bếp chùa, vẫn tinh thần ấy, vẫn lời Pháp ấy vị Trụ Trì khả kính giờ đây nét thời gian in hằn trên khuông mặt. Thầy đã già đi vì phải lo nhiều công việc Phật sự cho Tu Viện và Giáo Hội, dù bận rộn thầy vẫn duy trì tổ chức những khóa tu cho Phật tử. Bao lớp người đến và bao nhiêu người ra đi đều để lại những hoài niệm vui buồn mà bảy năm qua Hiền đã trải nghiệm.

Tu Viện là nơi sinh hoạt tu học chung cho đồng hương Phật tử, nên biết bao nhiêu người đến rồi bao nhiêu người ra đi, cứ mỗi lần như thế là gian bếp chùa có thêm một món mới, một câu chuyện mới và Hiền cũng có thêm một bài Pháp mới từ Thầy. Thầy hay dạy chị em chúng tôi:

 

- Tu nơi Bếp khó hơn tu trên Chánh điện và đương nhiên phước đức giống nhau, nhiều khi trội hơn vì những việc làm âm thầm ít ai để ý, ít người vỗ tay, ít người tặng thưởng nhưng kết quả thực nghiệm lại gặt hái nhiều Pháp vị nếu mình biết quán chiếu và áp dụng lời Phật dạy trong công việc mà mình đang làm.

Có nhiều câu chuyện mà Hiền đã học được từ nơi bếp chùa.

 

Câu chuyện chị Tuyền về công quả phụ giúp công việc nấu ăn cho khóa tu học. Chị là người đã từng làm nhà hàng lúc còn ở Việt Nam, giờ qua đây theo diện đoàn tụ vợ chồng. Nhớ hôm mới về chị cùng chị em chúng tôi phụ cô Trang nấu ăn cho đại chúng, được vài tháng chị tỏ ra mình là người hiểu biết về ẩm thực nên làm theo ý mình, chẳng những không làm theo sự sắp xếp của cô Trang mà tự ý thích làm gì thì làm, thích nấu gì thì nấu khiến cho gian bếp rối loạn và bề bộn thêm, điều đó làm cho cô Trang không được vui, bỏ bếp ra xe ngồi. Câu chuyện đã vào tai thầy trụ trì. Thầy cho mời cô Trang vô và thầy xuống tận bếp kêu hết mọi người ngồi quây quần lại, thầy dạy :

 

- Thầy xin hỏi: Chị nấu món gì mà khiến cô Trang không vui?

- Dạ thưa thầy con chỉ làm món gỏi trộn bánh “phồng tôm” chị Tuyền nói và đưa tay chỉ đĩa gỏi trên bàn.

Thầy lại hỏi cô Trang:

- Thế sao cô lại không vui khi chị Tuyền làm món ấy?

- Dạ bạch Thầy! Khi Tuyền đề nghị làm món gỏi, con đồng ý nhưng có nói với Tuyền là về phần cải sú phải bào nhỏ sợi vì làm như vậy ngon hơn, và dễ ăn cho mấy cụ lớn tuổi, vã lại khi trộn đừng rắc đậu phụng lên vì sợ nhiều người dị ứng, có thể để riêng, ai muốn thì rắc lên, tránh trường hợp dị ứng đậu phụng khó thở như có lần Tu Viện đã từng bị phải đi bệnh viện, Tuyền không nghe con góp ý và nói “làm như vậy không ngon”.

Khi nghe Truyền và cô Trang trình bày thầy Trụ trì mĩm cười cầm đĩa gỏi lên gắp một miếng đưa vào miệng nhai đều, đầu gật mấy cái như tâm đắc điều gì đó. Đặt đĩa gỏi xuống bàn thầy quay sang nói với chị Tuyền:

 

- Chị làm món này bắp sú giòn rất ngon, tuy nhiên bỏ giấm hơi nhiều dẫn đến hơi chua, vì trong đây đã có xoài rồi, vã lại rau răm phải ít lại vì đặt tính rau răm nóng không tốt cho sức khỏe, đậu phụng giã lớn quá ăn vô lộm cộm trong miệng…Cũng vậy! Trong gian bếp này cô Trang là người lớn tuổi nhất và làm việc lâu năm nhất, các chị đến sau phải biết lắng nghe, sự lắng nghe này phải mở mắt lắng nghe, nghĩa là nghe những điều có lý, phải tôn trọng sự cống hiến lâu năm. Cô ấy có Phước đức sâu dày hơn mình vì quá trình làm việc nhiều năm, mình nương cô ấy để tập tu những điều khó tu nhất trong gian bếp này, cho dù có những cái mình biết nhiều hơn cô ấy.

 

Thầy quay sang cô Trang:

 

- Cô có nhớ! Có lần thầy nói với cô thế nào giữ tâm mình như giữ lửa không?Trong lúc nấu ăn, lửa phải điểu chỉnh thích hợp độ nóng vừa phải, điều chỉnh thích hợp thì món ăn không bị vấn đề. Điều đó nói lên điều gì? Tuy cô là người làm công quả lâu năm nhưng cũng phải hài hòa kết hợp, những ý kiến từ các em mới đến, nếu thấy hay thì cô cũng phải uyển chuyển tùy thuận, sự tùy thuận này cho thấy mình không phải độc tôn bá chủ ở đây mà luôn luôn lắng nghe học hỏi cái mới, biết cảm nhận và tiết chế khi tâm ta tiếp xúc những điều mà ta luôn nghĩ nó chuẩn mực với mình. Thầy không phủ nhận sự góp ý của cô đối với món gỏi của chị Tuyền, nhưng ở đây thầy nói chung là cô phải nhẹ nhàng và vui vẻ khi ai đó không vừa ý với mình để rồi tâm ta không giao động, rồi sinh ra trạng thái hờn giận không đâu, dễ dẫn đến mất hòa khí trong công việc. Ví như ngọn lửa trong lò đang cao, cô nhẹ nhàng hạ xuống và kiểm soát nó thì thức ăn không cháy, nước súp không bị tràn ra khỏi nồi và đồng thời lửa nếu vặn cao sẽ tạo ra lửa đỏ khiến xoong nồi bị “khói đen”. Thầy nghĩ trong chuyện này cả cô và chị Tuyền, một bên lắng nghe, một bên hài hòa kết hợp, không  bất mãn giận hờn thì cả hai đều vui vẻ, giống như món gỏi phải trộn đều các thứ thì mới ngon và hoàn mỹ.

 

Thầy đứng lên và khuất dần cuối dãy hành lang nhưng dư âm lời nói ấy vẫn còn chấn động trong tâm tư mỗi người chúng tôi. Cô Trang, chị Tuyền ôm nhau thân thiết thể hiện sự thông suốt trong bài Pháp vừa rồi của thầy. Riêng Hiền thì ánh mắt cứ nhìn hoài ngoài sân, nơi ấy hình ảnh tượng đài Bồ Tát Quan Âm đang sừng sững giữa mây trời gió lộng. Thầy như người mẹ hiền luôn vỗ về mỗi khi con mình có chuyện. Khi gian bếp này “rực nóng” thầy liền đến với lời lẽ nhẹ nhàng thâm thúy như lời kinh Phật, xoa dịu khiến cho ngọn lửa đang hực cháy kia liền tắt lịm. Ôi! Còn gì hạnh phúc hơn khi được gần gũi bên thầy, được nghe những lời ân cần dạy bảo thắm đệm tình cảm thiêng liêng như mẹ hiền ru con ngủ. Hiền rời Tu Viện mà trong lòng còn mãi vấn vương.

 

Hôm nay trời xứ Úc đang vào mùa thu, lá vàng trên đường về Tu Viện rụng đầy hai bên đường, ngọn gió từ hướng Tây thổi về làm xe lạnh, Hiền khoát chiếc khăng choàng cổ liền vội vã bước vào Tu Viện. Mọi người đã về đông đủ nhưng sao ai nấy đều lặng thinh, trên mặt vị nào cũng hiện nét buồn thương.

Nhẹ nhàng để vội chiếc giỏ đựng áo khoát trên bàn, Hiền ngồi xuống chưa kịp hỏi câu nào thì bỗng dưng chị Duyên òa lên khóc, sau đó mọi người ai cũng khóc. Hiền bàng hoàng chưa biết chuyện gì, nhưng có linh cảm có chuyện bất hạnh gì đang xảy ra. Hiền liền hỏi :

- Chuyện gì? Sao mọi người ai cũng khóc?

- Khi nảy điện, biết em đang lái xe chị không nói sợ em xúc động ảnh hưởng an toàn, Cô Trang mất rồi em ơi! Chị Thắm nói trong tiếng khóc.

Hiền sững sờ khóc nghẹn khi nghe tin.

- Sao mà đột ngột vậy? Cô bệnh gì mà mất vậy chị?

- Cô bị gan nhưng dấu chị em tụi mình, những ngày cuối đời cô chỉ nói cho mình Thầy biết thôi!

- Hèn gì mấy tuần gần đây không thấy Cô về Tu Viện.

- Ngày bệnh Cô trở nặng, Cô bảo anh Thắng con Cô báo cho Thầy hay, thầy vào bệnh viện thăm Cô, Cô lạc quan không nói gì về bệnh tình của mình mà cứ hỏi Thầy công việc Tu Viện, mấy chị em dưới bếp có khỏe không và có về thường xuyên không? Rồi chuyện nấu nướng, đi chợ, nhờ người chở đồ…

Tang lễ của Cô được Thầy tổ chức trang nghiêm tại nhà Quàn, Phật tử trong Đạo Tràng đến hộ niệm rất đông. Trên màn hình chiếu lại những hình ảnh kỷ niệm của Cô và gia đình cũng như những hình ảnh Cô làm công quả tại Tu viện. Thầy trụ trì trước khi làm lễ đã nói vài lời tán thán công hạnh.

 

- Chỉ còn giây phút ngắn ngủi nữa thôi thân giả tạm của Cô sẽ trở về cát bụi, thầy và toàn thể quý Phật tử trong đạo tràng xin chia buồn đến toàn thể con cháu trong gia đình, mong quý vị đè nén đau thương của sự mất mác này mà nhất tâm hướng về Tây Phương Cực Lạc, nguyện cầu đức Phật Di Đà tiếp dẫn hương linh Cô vãng sanh về thế giới của Ngài.

- Đời cô 75 năm hiện diện nơi cõi đời này, đối với gia đình Cô đã làm tròn trách nhiệm của một người vợ, người mẹ, người bà. Đối với Đạo Cô là một Phật tử mẫu mực ai cũng thương mến. Mười lăm năm Cô đã tận tụy trong công việc tại gian bếp chùa. Một sự cống hiến âm thầm ít ai biết nhưng việc làm đó đã đem lại niềm hỷ lạc cho đại chúng mỗi khi về Tu Viện tu học. Mười lăm năm trôi qua thầy trò biết bao nhiêu kỷ niệm trong công tác Phật sự, thầy không bao giờ quên hình ảnh của Cô với hai ba lớp áo khi đông về giá lạnh nhưng trên khuôn mặt lúc nào cũng hoan hỷ cho dù việc nấu ăn cho nhiều người rất cực khổ, từng cái xoong cái nồi, hay cái thau cái rổ, đâu đó đã được Cô sắp xếp gọn gắng.

 

- Giờ đây! Và mãi mãi gian bếp chùa sẽ vắng bóng Cô! Thầy và tất cả quý Phật tử trong Đạo Tràng xin tán thán công đức của Cô suốt 15 năm qua đã cống hiến cho công việc phát triển Đạo Tràng. Cô ra đi nhưng những gì Cô để lại sẽ mãi mãi là hình ảnh đẹp. Nói đến đây thầy yên lặng một hồi…! Mọi người đều lặng yên như để tưởng niệm về Cô. Cả không gian chìm trong tịch tĩnh, chỉ có tiếng xào xạc của nhành cây bạch đàn bên hiên nhà Quàn tạo ra nốt nhạc u buồn tiễn đưa.

 

Đại chúng cùng gia đình vân tập đông đủ tại Linh Đường Tu Viện, những lời kinh tiến bạt hương linh của Thầy vang lên, ai nấy đều trang nghiêm chắp tay cầu nguyện, mong cô đuợc vãng sanh về Tịnh Độ.

Giờ đây gian Bếp chùa đâu đó gọn gàng ngăn nắp, vì ai nấy đều nhớ và làm theo Cô, đồng thời thấm nhuần lời thầy dạy: “Làm với tâm phụng sự, không hơn thua, không ích kỷ, không đố kỵ, không tranh giành…”

Hiền vẫn về Tu Viện với công việc âm thầm nơi gian bếp, để lắng nghe và thực hành lời Pháp thầy giảng mỗi lúc gian bếp rộn ràng khi có kẻ đến người đi.

 

Lá vẫn rơi bên hè Tu Viện, gió vẫn thổi bên hông gian Bếp Chùa. Hiền ngồi đó sắt từng bắp cải, gọt từng trái su nghe lòng mình ngân vang theo từng cung bậc, cung bậc của thời gian hay cung bậc của sự thăng trầm sinh diệt. Xa xa cuối dãy hành lang có tiếng bước chân của vị Trụ Trì tôn kính đang khoan thai tiến về gian Bếp.

-Ta phải học gì từ khi lửa bắt đầu nóng lên?

Đây là câu nói trở thành “châm ngôn” nơi Bếp Chùa, lời Thầy nhỏ nhẹ nhưng âm vang ngân dài…

Ngoài hiên ánh tà dương khuất dần sau hàng cây xanh, đâu đó có tiếng chim lạc loài sau một ngày mệt nhoài vì sự sống. Tiếng Hồng Chung vang lên trên chánh điện, gian Bếp Chùa như ngủ im để chuẩn bị cho ngày mai ấm lên trong ý nghĩa phụng sự.

 

Hiền ra về khi đã kết thúc một thời Kinh, trong lòng tràn đầy hỷ lạc vì đã học được nhiều điều, tự nhiên Hiền cảm thấy ấm lên dù ngoài kia trời mùa đông gió lạnh.

 

 

Hè Melbourne 12/2024

Đồng Thanh

 🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Mời xem bài cùng tác giả

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/03/2016(Xem: 10448)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10469)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 16278)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3649)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2995)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6234)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4687)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 12802)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 14191)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
18/12/2015(Xem: 7350)
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên khác biệt. Chuyến đi Ai Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng có nhân duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương Trượng được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ thời gian ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ ghé Bồ đề Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường Đại học Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ duyên được gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù lại phần lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh viên hoặc ở nhà trọ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]