Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Giáo-Sư Cư Sĩ Vũ Khắc Khoan, Hội-Trưởng Sáng Lập Hội Phật-Giáo Việt-Nam tại Minnesota

19/09/202108:50(Xem: 7866)
Tưởng niệm Giáo-Sư Cư Sĩ Vũ Khắc Khoan, Hội-Trưởng Sáng Lập Hội Phật-Giáo Việt-Nam tại Minnesota
vu khac khoan
Tưởng niệm
Giáo-Sư VŨ KHẮC KHOAN
Hội-Trưởng Sáng Lập Hội Phật-Giáo Việt-Nam tại Minnesota

Đầu thập niên sáu mươi tôi rời trường Chu-Văn-An khi Trường vừa mới chuyển xuống đường Minh-Mạng trong Chợ Lớn. Giã từ Thầy học, chia tay bạn bè để đi con đường mới. Dẫu có học chung trên Đại Học cũng không còn thân thiết như xưa. Hồi đó tôi chia các Giáo-Sư trong Trường Chu-Văn-An làm 2 loại: Một loại “khó đăm đăm”, luôn luôn nghiêm khắc, không bao giờ cười dù chỉ mỉm miệng. Điển hình là Giáo-Sư Đào Văn Dương. Loại thứ hai luôn luôn vui cười, hay đùa giỡn với học sinh. Điển hình là Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Quỳnh. Tôi rất kính trọng cụ Đào Văn Dương ở tính ngay thẳng, chừng mực. Tôi thân mật với cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh dĩ nhiên vì tính vui vẻ, cởi mở, dễ thân mật. Đặc biệt cụ còn là một Cư-Sĩ Phật-Giáo mà tôi thường được nghe cụ thuyết pháp ở chùa Phước-Hòa cuối thập niên năm mươi (Con trai cụ hiện là một vị Hòa-Thượng ở vùng Houston, Texas).

Mãi đến giữa thập niên sáu mươi tôi mới chợt nhận ra còn một loại Thầy thứ ba. Hồi đó tôi đang dạy Lý Hóa cho một số lớp Đệ Nhị ở Trường Văn-Hóa Quân Đội, mỗi chiều đi dạy học về trên chiếc xe Vespa trên đường Hồng Thập Tự, khi qua vườn Tao Đàn tôi luôn luôn gặp một người Thầy cũ, lững thững đi bộ từ trong vườn Tao Đàn ra: Giáo-Sư Vũ Khắc Khoan. Hồi đó ngoài việc dạy học cho các trường Trung-Học, cụ còn dạy Kịch trong trường Quốc-Gia Âm-Nhạc và Kịch-Nghệ. Thầy trò cúi đầu chào nhau rồi tiếp tục trên con đường của mình. Và cụ thuộc loại thứ ba, có lẽ mình cụ thuộc loại này: Bên ngoài là nét mặt đăm chiêu nghiêm khắc, nhưng lại ẩn chứa tính tình hiền hòa, vui vẻ, hay pha trò cười một cách duyên dáng, dí dỏm.

Sau Tết Mậu-Thân mọi sự biến đổi. Tôi nhập ngũ và Thầy trò không còn được gặp nhau nữa. Thỉnh thoảng gặp ông anh rể họ, ông Nguyễn Văn Tịch, cựu Vô Địch quần vợt Việt-Nam đầu thập niên Năm mươi, lúc đó cụ đang học quần vợt với ông Tịch. Hỏi thăm Tịch về cụ, Tịch trả lời: “Hắn vẫn vậy!”
Ngày 30 tháng 4, 1975, tôi đem gia đình chạy khỏi Việt Nam và dược đưa đến Fort Chaffee, Arkansas. Ở đây Thầy trò lại tình cờ được gặp nhau. Nói là gặp nhau nhưng ngoài cái cúi đầu hồi xưa nơi đường Hồng Thập Tự, có thêm chăng cũng chỉ là nhũng câu chào hỏi ngắn ngủi. Tình thực cụ rời Fort Chaffee lúc nào và đi đâu tôi cũng không biết. Sau đó gia đình tôi được đưa đi định cư tại Minnesota. Cuối năm 1975, tôi được tin người Việt tại đây dự định thành lập Hội Phật-Giáo, tôi mới biết Thầy trò vốn hữu duyên.

Đây là thời gian tôi được trò chuyện với cụ nhiều hơn. Trò chuyện với cụ khi đưa đón Thầy Giác-Đức, trò chuyện với cụ khi ra phi trường đón cụ Tâm-Châu. Trò chuyện của những Phật tử làm việc đạo. Những câu thăm hỏi, những chuyện vãn được thêm vào cho cái cúi đầu ngày xưa ở đường Hồng Thập Tự nơi cổng vườn Tao Đàn. Thời gian này tôi lại tìm được một vài khía cạnh khác của Giáo-Sư Vũ Khắc Khoan. Cụ không còn là những bí ẩn khó hiểu trong “Thần Tháp Rùa” hay “Thành Cát Tư Hãn”. Cụ, một con người bình dị, không cầu kỳ hiểm trở, không đòi hỏi cái toàn hảo, toàn mỹ. Xa hơn nũa, cụ đã đả phá cái cầu kỳ hiểm trở như cụ đã cực lực đả kích trong tác phẩm cuối cùng “Đọc Kinh”:
“… Mọi người đua nhau đi tìm kinh lạ. Những bậc trí thức hễ gặp nhau là lập tức thảo luận về thiền. Bán già, Kiết già, Kim cương tọa, Ma tọa, Kiết tường tọa, Tam muội ấn, là những danh từ cửa miệng mọi người. Không những Lăng Già mà hầu như tất cả kinh và kệ lần trở thành những môn học danh tướng. Nghĩa kinh phai nhạt. Ý kinh tuyệt mù. Còn lại, chỉ là một mớ ngôn từ tạm gọi là kinh và kệ và giữa kinh đô, với ngày và tháng qua đi, một vài tảng đá xếp đống tạm gọi là Phân kinh thạch đài. Miệng Phật nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.”



vu khac khoan-2

Hàng ngồi phía trước từ trái qua: Đạo hữu Tâm Thành, GS Vũ Khắc Khoan, HT Thích Tâm Thọ, Đạo hữu Minh Hiệp.
Hàng đứng phía sau từ trái qua các Đạo hữu: Tâm Ngôn, Như Trung, Ngô Nhung, Trí Viên, Đái Thị Minh, và Nga Truitner
(Hình chụp năm 1979) 




Có lần cụ bảo tôi: “… quần áo cũng vậy, phải có défaut, nếu không thì cậu là manequin chứ không phải con người.” Có “défaut” nhưng vẫn phải là bộ quần áo. không cầu kỳ nhưng những mong muốn đơn giản phải được đạt đến. Có lẽ vì những mong muốn đó, những hoài bão đó nên cuối thập niên bẩy mươi, song song với Hội Phật-Giáo, cụ đã đứng ra thành lập Hội Văn-Hóa với hoài bão duy trì Văn Hóa Việt trên quê hương mới này. Cái hoài bão mà cụ đã nói thẳng ra trong bài diễn văn trong ngày khánh thành chùa Phật-Ân hôm Phật-Đản năm 1984:

“ … Nhưng đứng trước cổng chùa hôm nay, nhắc lại những chuyện đã qua, tôi bỗng ngùi ngùi thấy lòng vẫn chưa rũ hết phiền não, tâm vẫn còn gợn lên những ưu tư. Ưu tư về một cái đích tôi tự đặt riêng cho tôi từ những ngày bắt tay vào Phật sự nơi đây. Phiền não vì cái đích đó vẫn chưa thấy nhúc nhích lại gần. Cái đích đó, nói rõ hơn, cái tham vọng đó là trong muôn một cố gắng đảm nhận vai trò giáo dục mà Phật Giáo chúng ta vào những ngày đầu dựng nước năm xưa đã đảm nhận và viên mãn.”

Thực ra khi nói “vẫn chưa thấy nhúc nhích lại gần” cụ đã khiêm tốn với những thành quả khởi đầu về giáo-dục mà Hội đã đạt được dưới sự hướng dẫn của cụ và sự đóng góp của anh chị Nguyễn Hữu Hưng.

Trong hai năm kế tiếp đó những nét vô thường hiện rõ trên nét mặt và thân thể cụ. Cụ ít tiếp xúc với bên ngoài. Các sinh hoạt chậm hẳn lại. Mùa Hè năm 1986, hôm Thầy Từ-Lực về Chùa, Thầy yêu cầu tôi đưa Thầy đến thăm cụ. Tôi gọi điện thoại cho cụ bà:

- Thưa Cô có Thầy Từ Lực từ Cali lên Chùa muốn đến thăm Thầy con.
Cụ bà cho biết:
- Thầy đang mệt nhiều, không tiện tiếp khách, anh thưa lại với Thầy Từ-Lực giùm là để hôm khác hoặc hôm nào Thầy khỏe Thầy sẽ về Chùa thăm Thầy Từ-Lực.
Vài tuần sau tôi được tin cụ không còn nữa. Hôm đó 12 tháng 9 năm 1986.
Tôi đến nhà quàn, nhìn vẻ mặt bình thản của cụ. Bình thản như một cụ già đang niệm danh hiệu Phật. Tôi chợt nhớ tới một đoạn khác cụ viết trong “Đọc Kinh”:
“ … chúng sinh mộc mạc hiền lành chỉ có một phật hiệu để làm phật sự. Vọng ra từ đó – mái chùa cong vát chữ đao, cổng tam quan thềm đá nhẵn lì – không phải những ngôn từ hiểm trở Lăng Già, Bát Nhã, Pháp Hoa hay Viên Giác, mà chỉ phật hiệu đó, mà chỉ A-Di-Đà Phật, Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Có thế thôi, mỗi chiều ngày xưa Việt-Nam. Có thế thôi, nhưng mỗi chiều, bình thản vẫn trở về trên vừng trán hai sương một nắng những bà mẹ Việt-Nam.”
Tôi đến bàn thờ Phật, ngồi xuống, giở cuốn kinh tụng một thời Di-Đà.

Hai mươi mốt năm qua, hôm nay tôi chợt nhớ tới cụ. Không biết cụ đã tái sinh vào cảnh giới nào. Tôi đọc những lời của Cư-Sĩ Tịnh-Liên Nghiêm Xuân Hồng viết về cụ khi ông đang đi thuyền du ngoạn trên một chiếc hồ lớn tỉnh Hàng Châu: “Trên đường về, tôi trạnh lòng nghĩ rằng có thể là họ Vũ đã thọ sanh làm một vị thần nơi hồ này … Vì cái vụ đó có thể hợp với duyên nghiệp cùng tâm tình của anh ta …”

Người thầy học cũ, giờ này nếu không ở cõi Tịnh Độ chắc cũng đang ở một tầng Trời nào đó. Hay là, như Cư-Sĩ Tịnh Liên nghĩ, cụ đang là một vị Thần nơi cái hồ lớn Tỉnh Hàng-Châu.

Trí-Viên
(viết ngày giỗ GS VKK năm 2013)



___
Kính mời xem tiếp :
Đọc Kinh Bất Khả Thuyết (bài của GS Vũ Khắc Khoan)
Như Lai Vô Sở Thuyết (bài của GS Vũ Khắc Khoan)
Tưởng niệm Giáo-Sư Cư Sĩ Vũ Khắc Khoan (Bài của Cư Sĩ Viên Trí)
Vũ Khắc Khoan (1917-1986) Tác phẩm là một thác ngôn (Bài của Thụy Khuê)



facebook-1
***
youtube
 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2020(Xem: 8420)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
02/07/2020(Xem: 5455)
- Chú An ơi, chú còn pin không cho tôi xin với? - Ô, hết rồi Cụ ơi, con cũng không có tiền để mua pin mới! Thôi Cụ chịu khó nghỉ nghe tin tức vài hôm nha, có tiền con sẽ mua cho Cụ! Ông Cụ mắt nhìn vào chiếc radio buồn buồn, cúi đầu xuống rồi lại ngước lên, trông thật tội! -Thì cũng đành vậy thôi. Cám ơn Chú! Cụ có chiếc radio đã cũ lắm rồi, khổ cỡ của nó bằng cuốn vở học trò, cái cần ăng ten đã sứt từ lâu, ông tự chế lại bằng cọng căm xe đạp khiến tiếng nói nghe khàn khàn, thỉnh thoảng ông phải đập đập vào tay nó mới có âm thanh; màu sơn bây giờ cũng phai gần hết, lốm đốm, thay vào đó, mồ hôi tay, nhiều chỗ dính chút xi măng, lấm tấm đất…và thời gian đã làm chiếc radio của ông trông thật tội! Ngày nào cũng vậy, cứ hai lần sáng tối, ông nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách đất, đến giờ đài phát thanh thời sự là ông mở radio. Thời gian đầu, mấy Chú lo lắng, vì theo sự quy định của Sư Phụ thì tất cả những chú Tiểu mới vào chùa đều không được phép sử dụng bất cứ loại máy thu
29/06/2020(Xem: 6721)
Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu lại một câu đối đậm thiền vị tại ngôi chùa cổ Hội Khánh, nơi đặt Trụ sở Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Bình Dương: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” Tạm dịch: Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây. Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), 1861 chùa đã bị chiến tranh tàn phá thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với khuôn viên trên 1.200m2.
28/06/2020(Xem: 24047)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5717)
Thầy tôi là Giáo Thọ về môn Lịch Sử Phật Giáo và Cổ Đại Hán Ngữ trường Cao- Trung Phật Học Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Thầy có trí nhớ rất tốt, ngoài lĩnh vực chuyên môn thì hầu như “bỏ túi” nhiều bộ tiểu thuyết Lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc như Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử .v.v…Và đây là những viên kẹo tinh thần mà Thầy tôi thường thưởng cho huynh đệ chúng tôi trong lúc làm việc. Tưởng chừng những câu chuyện đó đã trôi vào dĩ vãng theo những năm tháng đầy biến động của cuộc đời, nhưng thật kỳ diệu tất cả dường như đều được sắp xếp lại gọn gàng trong ký ức của tôi như những món quà tâm linh và cùng lớn dần với dòng đời. Thời gian qua, thế giới đang oằn mình giữa cơn đại dịch Covid-19.
18/06/2020(Xem: 3975)
Phiên đại triều của Thiên Đình cứ trăm năm một lần kỳ này diễn ra trong bầu không khí thật hoang mang, mệt mỏi. Thái Bạch Kim Tinh nay đã già yếu lắm rồi. Cụ tâu trình quên trước quên sau khiến Ngọc Hoàng Thượng Đế chau mày rồi cũng phải thông cảm, khoát tay ra hiệu cho qua. Nam Tào, Bắc Đầu tai đã nghễng ngãng, gầy ốm hom hem, vầng trán nhăn nheo vì quá căng thẳng với chuyện của trần gian. Bà Lê Sơn Thánh Mẫu có lẽ nhờ Vườn Đào và biết sửa sang sắc đẹp cho nên trông vẫn trẻ. Thiên Lôi tuy còn khoẻ nhưng kể từ khi loài người chế ra cột thu lôi thì ông chỉ còn “ vớ ” được một vài người ngu ngơ chẳng may lang thang ngoài đồng ruộng trong lúc trời mưa gió. Ngoài ra uy quyền của ông còn bị sứt mẻ vì Ngọc Hoàng Thượng Đế vừa bổ
17/06/2020(Xem: 3358)
- Hai Chú đói bụng lắm phải không? Mặt mày xanh lè, tái mét hết rồi! Con có cơm của Ông Bà Chủ đem ra để chút nữa ăn. Con chia hai chú một miếng nha. Tôi quay nhìn, Dũng Đen chạy đến gần tôi nói giọng líu ríu, Nó chăn đàn vịt thuê cho Ông Bà Chín trong xóm, nghe nói nó quê Miền Tây nhưng không biết chính xác ở nơi nào, chỉ nghe nó kể nhà nghèo, anh em đông, Dũng là con trai lớn, dù thương lắm nhưng Ba Mẹ nó đành bấm bụng cho nó đi giữ vịt thuê lấy tiền để nuôi gia đình. Mỗi năm Dũng chỉ về nhà được một lần trong dịp tết. Dũng Đen nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng trông mạnh khỏe và lanh lợi, mọi người kêu Dũng Đen vì ngoài cặp mắt ra thì cả người nó đen nhánh. Không biết vì da nó đen hay là vì từ nhỏ đến giờ ở ngoài đồng ruộng nên mới đen như vậy?
15/06/2020(Xem: 4875)
Thuở ấy nơi thành Ca Tỳ La Vệ của xứ Ấn Độ nhiều tín ngưỡng, nhiều giai cấp và nhiều bất công, đấy là nơi lý tưởng cho họ sinh ra và gặp nhau để nối mối lương duyên kết thành vợ chồng trong kiếp cuối cùng. Chàng là Thái tử phước báu đầy người với 32 tướng tốt, sức khỏe phi thường. Nàng là công chúa nước nhỏ láng giềng, dung mạo đoan trang và diễm kiều, lúc nào cũng là đối tượng thu hút cho các vương tôn công tử con nhà quyền quý đến tuổi kén vợ. Nhưng duyên trời đã định sẵn cho họ thành vợ chồng, nên cho dù anh chàng Đề Bà Đạt Đa có ba đầu sáu tay đến đâu, có mưu mô giành giật tới đâu cũng không chiếm được trái tim nàng công chúa khả ái này. Tuy nhiên để cho công bằng và theo đúng luật lệ của hoàng gia, các chàng phải thi đấu trong tất cả các bộ môn từ cung cho tới kiếm, ai chiến thắng sẽ được làm phò mã.
04/06/2020(Xem: 4076)
- Nhanh chân lên các con, vào chòi tránh mưa thôi! Tiếng Thầy gọi, huynh đệ chúng tôi mỗi người cùng phụ nhau đem giỏ thức ăn và mấy đồ lặt vặt đi làm vào trong chòi. Gọi cái chòi chứ thật ra đây chỉ là chuồng Bò cũ của ông Sáu già gần chùa đã bỏ vài năm nay, trống trơn, chỉ còn phần mái che ở trên nhưng tranh cũng đã sắp mục rồi! Giữa bốn bề đồng ruộng trống trơn không có bóng cây thì cái chòi tranh là nơi duy nhất để tạm lánh những lúc nắng mưa.
03/06/2020(Xem: 10499)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]