Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Thiền sư Mãn Giác, Đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

30/08/202112:21(Xem: 14988)
33. Thiền sư Mãn Giác, Đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông


276_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Man Giac


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,


Hôm nay hàng đệ tử chúng con được học về Thiền Sư Mãn Giác (1052-1096). Ngài thuộc đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 276 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (từ đầu tháng 5-2020).

Sư họ Nguyễn tên Trường, quê ở Lũng Chiền làng An Cách. Thân phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ ngoại lang.

Lúc vua Lý Nhân Tông còn làm thái tử, triều đình có chọn con em của các danh gia vào hầu. Sư là người học rộng hiểu nhiều lại thông cả Nho, Lão, Phật nên được dự tuyển, những lúc rảnh, Sư thường chú tâm vào Thiền na. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi, vì lòng mến Sư nên ban hiệu Hoài Tín.


Sư Phụ giải thích: ngài Mãn Giác từng là tư vấn chính trị cho thái tử Nhân Tông, vì bản thân lầu thông tư tưởng của Lão, Khổng và Phật, giúp cho thái tử đường hướng lên ngôi trị quốc, con đường ra làm quan để phò vua giúp nước, hưởng vinh hoa phú quý rộng mở trước mắt ngài, nhưng ngài từ bỏ tất cả để xuất gia vì chỉ có giáo nghĩa của Đạo Phật mới giúp cho ngài thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Lý Nhân Tông là vị vua thứ 4 của triều đại nhà Lý, có công xây dựng hoàn tất ngôi Chùa Một Cột, niềm tự hào của dân tộc VN, ông là con của vua Lý Thánh Tông và phi tần Ỷ Lan.


Khoảng niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084, thời vua Lý Nhân Tông), Sư dâng biểu xin xuất gia, theo học với thiền sư Quảng Trí. Sau khi được tâm ấn, Sư thường chống gậy mang bát vân du khắp nơi, để tìm thiện tri thức. Sư đến nơi nào thường có học giả vân tập đông đảo.

Sư Phụ giải thích: ngài Mãn Giác chọn xuất gia theo Phật giáo, và chú tâm về Thiền na, phương pháp đưa đến chấm dứt vòng khổ đau sanh tử luần hồi.

Thiền Na tiếng Phạn gọi là Dhyāna tức là Tịnh lự. Tịnh là tu Chỉ, dừng lại hết mọi vọng tưởng, đạt đến Định tâm, đắc ngũ thần thông (Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Thần Túc Thông và Túc Mạng Thông). Còn Lự là tu Quán,  dùng trí tuệ quán chiếu thân, tâm, cảnh là không, là giả có, ly sinh hỷ, buông hết mọi dính mắc, tận diệt chấp ngã, chấp pháp, trở về với pháp gốc, tự tánh của bản thân, nhận ra vô sư trí, đạt tới vô sanh bất tử, đắc quả A La Hán, chấm dứt sanh tử luân hồi, ngay tại đây hành giả chứng thêm thần thông cuối cùng là Lậu Tận Thông.

Sư Phụ cũng nhắc thêm đến thời Lục Tổ Huệ Năng ngài chủ trương Định-Huệ bình đẳng, trong định có tuệ, trong tuệ có định, tức là định-tuệ, chỉ-quán song tu với nhau, chứ  không theo thứ lớp như thuở ban đầu. Ngài Mãn Giác đã lầu thông pháp tu Thiền Na (Chỉ-Quán) này.

Vua Lý Nhân Tông ban cho Sư hiệu Hoài Tín, biểu trưng cho ý nghĩa là nhớ lại túc duyên trong quá khứ tín tâm với Tam Bảo.

 

Sư xem Đại Tạng Kinh được trí vô Sư, nên làu thông kinh pháp, thiền na.

Sư phụ giải thích: hành giả có hai loại trí: 1/Vô Sư Trí: là trí tuệ tự có, là trí thường hằng của tất cả chúng sanh, thành tựu được không nhờ vào sức của người khác.

2/Hậu Đắc Trí: là trí tuệ đạt được sau khi tu tập thành công giới định tuệ, trí này được kích hoạt hiển lộ ra từ Vô Sư trí sẵn có của mình

- Đức Thế Tôn đã nhận ra Vô Sư trí, nhờ Ngài đã muốn tìm ra nghi vấn, con người từ đâu đến và chết rồi đi về đâu, không ai giải đáp được, Ngài tự đi tìm và sau 6 năm tu tập, một sáng sao mai vừa mọc, ngài chứng đắc đạo quả dưới cội Bồ Đề, Vô Sư trí hiển lộ, đã giải đáp rõ mọi thứ qua túc mạng minh của ngài, thấy biết mình từ nhiều kiếp ngàn xưa, thiên nhãn minh thấy nghiệp quả của chúng sanh trong lục đạo luân hồi như đứng trên lầu cao thấy chúng sanh đi qua lại trên các nẻo đường.

Đức Thế Tôn cho biết tất cả chúng sanh đều có vô sư trí, để nhận ra được vô sư trí của chính mình thì phải hành trì tu tập. Ngày nay, Thiền sư Mãn Giác nhờ đọc Đại Tạng Kinh mà đạt được Vô Sư Trí.

Vua và bà Hoàng thái hậu Cảm Linh Nhân (Ỷ Lan), đang để tâm học thiền, bèn dựng ngôi chùa bên cạnh Cảnh Hưng hiệu là Giáo Nguyên, thỉnh Sư trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Đối với Sư chẳng dám gọi danh thường, chỉ xưng là Trưởng lão. Một hôm nhà vua có lời tán thán công hạnh của Sư như sau: “Bậc chí nhân thị hiện, cốt để cứu vớt chúng sanh, không hạnh nào chẳng đủ, không việc nào chẳng tu, chẳng phải chỉ sức định tuệ, mà còn có công giúp ích cho đời, nên phải kính nhận đó’’.
Vua bèn phong hiệu Giáo Nguyên Thiền Viện, Hoài Tín đại sư truyền Tổ Vô Tu Vô Chứng Tâm Ấn. Sư phụng chiếu nhận chức Nhập nội Đạo Tràng, Từ tử Đại Sa môn, Đồng tâm ty cộng sự.

Sư Phụ giải thích: chùa Giáo Nguyên do Vua Lý Nhân Tông xây dựng trong thành nội Thăng Long để thỉnh ngài về trụ trì. Giáo là dẫn dắt, Nguyên là cội nguồn. Lập chùa ra để giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh trở về nguồn cội tâm linh, nguồn cội ấy chính là “thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú” mà mọi người hằng có.


Kính mời xem tiếp





 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7849)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4356)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4845)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6282)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7756)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5306)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5360)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4439)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8927)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10264)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]