Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền sư Cứu Chỉ . Ngài thuộc đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông. Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 268 của Sư Phụ, bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Tiểu sử của Sư rất khiêm tốn, không có năm sanh và năm mất. Sư họ Đàm, quê ở làng Phù Đàm, phủ Chủ Minh. Thuở nhỏ Sư rất ham học, đọc thông suốt các sách Tam giáo. Một hôm, Sư tự than: “Khổng và Mặc câu chấp về lẽ có, Lão và Trang đắm đuối về lẽ không, những sách thế tục chẳng phải phương pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có hay không, có thể liễu thoát sanh tử, nhưng phải siêng năng tu trì giữ giới thanh tịnh và tìm thiện tri thức ấn chứng mới được.”
Nhân đó, Sư xả tục xuất gia, tìm đến Ấp Sơn, chùa Cảm Ứng xin làm đệ tử Trưởng Lão Định Hương. Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: - Thế nào là nghĩa cứu kính? Trưởng lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: - Hiểu chưa? Sư thưa: - Chưa hiểu. Trưởng lão bảo: - Ta đã cho ngươi nghĩa cứu kính. Sư suy nghĩ Trưởng lão bảo: - Lầm qua rồi! Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ, nhân đó Trưởng Lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.
Sư Phụ giải thích: Cứu cánh là chỗ tột cùng của đời tu, là chứng ngộ Phật tâm, thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú. Ngài Định Hương không có nói gì mà sao nói chưa hiểu vì cứu cánh không thể nói ra bằng lời, chỉ thầm hiểu trong thầm lặng, rõ biết hiện tiền. Phật tâm không thể nói ra mà chỉ tự chứng tự biết. Im lặng là câu trả lời của thiền sư Định Hương. Im lặng hùng tráng là thể của Phật tánh, của chân tâm, không diễn ra bằng ngôn từ. Suy nghĩ là chưa đạt được là vọng tâm là lầm qua rồi. Ngay câu nói này, Sư hốt nhiên đại ngộ và được ấn chứng, trưởng lão đặt tên là Cứu Chỉ, đạt được cứu cánh và yếu chỉ của thiền tông.
Sau , Sư lên chùa Quang Minh, núi Tiên Du (Bắc Ninh), ở luôn trong đó tu hạnh đầu đà, trọn năm không bước chân xuống núi. Tiếng đồn tới kinh đô, vua Lý Thái Tông cho mời mấy phen mà Sư không đến. Đích thân 3 lần Vua đến chùa Sư thưa hỏi. Thái sư Lương Văn Nhậm rất kính Sư.
Khoảng niên hiệu Long Phụng Thái Bình (1054-1059), tể tướng Dương Đạo Gia lập chùa Diên Linh trên núi Long Đội, Yên Lãng thỉnh Sư trụ trì. Cố từ chối mà không được, Sư đành hạ Sơn. Ngày ra đi, Sư nói: “ ta chẳng trở lại đây nữa”. Cầm thú trong núi kêu buồn suốt ba tuần mà chưa dứt.
Trụ trì chùa Diên Linh được ba năm, khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Sư sắp tịch, bèn gọi môn đồ đến dạy: - Phàm tất cả các pháp môn vốn từ tánh của các ngươi, tánh tất cả pháp vốn từ tâm của các ngươi. Tâm pháp nhất như, vốn không hai pháp.
Phiền não trói buộc, tất cả đều không. Tội Phước phải quấy, tất cả đều huyễn.
Không cái nào chẳng phải quả, chẳng phải nhân. Không nên ở trong nghiệp mà phân biệt báo. Không nên ở trong báo mà phân biệt nghiệp, nếu có phân biệt thì chẳng tự tại.
Tuy thấy tất cả pháp mà không có chỗ thấy. Tuy biết tất cả pháp mà không có chỗ biết.
Biết tất cả pháp lấy nhân duyên làm gốc. Thấy tất cả pháp lấy Chánh chơn làm tông.
Tuy chuyên nơi thực tế mà rõ thế gian đều như huyễn hoá. Rõ thấu chúng sanh chỉ là một pháp, không có hai pháp.
Chẳng rời cảnh nghiệp mà phương tiện khéo léo ở trong cõi hữu vi hiện bày pháp hữu vi mà không phân biệt. Tướng vô vi là do hết dục, dứt ngã, quên niệm mà nhận lấy vậy.
Vua Lý Thái Tông mơ thấy Bồ Tát Quan Âm nắm tay dắt lên ngồi toà sen, Vua cho xây chùa hình hoa sen trên một cột để thờ Đức Quán Thế Âm và có tên là chùa một cột, và chùa còn có tên là chùa Diên Hựu.
Ba đời vua nhà Lý rất mộ đạo là linh hồn của Phật giáo Việt Nam, đã đem lại nền thạnh trị cho nhà Lý. Vua Lý Thái Tông có thỉnh Sư Cứu Chỉ nhưng Sư Từ chối viện lý Sư tu theo hạnh đầu đà.
Sư Phụ giải thích:
Thiền Sư Cứu Chỉ sau khi hạnh đầu đà có 13 pháp: 1- mặc y phấn tảo, khâu từ vải nhặt trong nghĩa địa. 2-chỉ có ba y thôi. 3-sinh sống bằng khất thực. 4-chỉ ăn một bửa trưa đúng ngọ 5-không để dành thức ăn, dư thì cho thú ăn. 6-ăn trong bình bát. 7-không giữ tịnh tài 8-sống độc cư 9-sống trong nghĩa địa 10-sống dưới gốc cây 11- ở ngoài trời 12-không ở chỗ nhất định 13-ngủ ngồi, thiền tập, lưng không dính chiếu.
Sư thị tịch không rõ ngày tháng, Sư nói kệ:
Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên, Thần thông các tướng biến hiện tiền. Hữu vi vô vi từ đây có, Thế giới hà sa không thể lường. Tuy nhiên đầy khắp cõi hư không, Mỗi mỗi xem ra chẳng tướng hình. Muôn đời ngàn đời nào sánh được, Chốn chốn nơi nơi thường rạng ngời.
Nói xong Sư ngồi yên thị tịch.
Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiển Sư Cứu Chỉ do Thầy Chúc Hiền cúng dường.
Thiếu thời hiếu học, rộng nghiên tầm
Tam giáo am tường, Phật để tâm Cảm Ứng thiền môn nương diệu pháp Định Hương thạch trụ mở huyền âm Khai thông đạo nhãn thừa đương ấn Tỏ ngộ thiền cơ lễ tạ ân Cứu Chỉ đầu đà gương đức sáng Vua quan tăng tục mến thân gần..!
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về thiền sư Cứu Chỉ, tên của Sư được sư phụ của Sư, Trưởng Lão Định Hương đặt cho, nói lên yếu chỉ đạt đạo cứu cánh chân tâm của Sư và Sư đã làm bài kệ thấy tánh: … Thế gian đều như huyễn hoá Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên
… Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Cung kính và tri ơn Sư Phụ
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montréal, Canada).
Thiền Sư Cứu Chỉ (Nối Pháp của Trưởng Lão Định Hương, Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Lời di chúc và bài kệ thị tịch là tóm tắt của một quá trình liễu ngộ Phật Pháp từ khi kính xin Sư Phụ (Trưởng Lão Định Hương )chỉ rõ nghĩa của CỨU CÁNH và đã được pháp hiệu CỨU CHỈ sau lần ấn chứng sự triệt ngộ .
Kính dâng Thầy bài trình pháp với những chi tiết con lĩnh hội qua bài pháp thoại quá tuyệt diệu Kính đa tạ và tri ân những bài pháp thoại của Thầy về Tổ Sư Thiền từ Ấn Trung qua đến Việt Nam, sau mỗi bài pháp thoại đã giúp con càng thấy thanh thản và nhẹ nhàng hơn dù những tin dữ về đại dịch khắp nơi gửi về từ người thân nơi quê nhà ...phải chăng nếu liễu ngộ được luật nhân quả theo lời di chúc của Thiền Sư Cứu Chỉ ( bài pháp thoại hôm nay ) đã an ủi tinh thần chúng đệ tử và tiếp tục tu tập để liễu thoát sinh tử như Ngài . Kính đảnh lễ Thày và kính chúc Thày pháp thể khinh an , HH
Cảo thơm lần giở ...hành trạng Thiền Sư Cứu Chỉ !
Sống giữa thời đại nhà Lý với Tam Giáo Đồng Nguyên (1)
Xuất gia vì nhận ra Phật Pháp quá diệu huyền
Dung thông Không, Có ...còn liễu thoát được sinh tử ! (2)
Kính đa tạ Giảng Sư .....
.....thấu triệt Cứu Cánh trong cách bặt ngôn ngữ (3)
Quá vi diệu ...khi liễu ngộ Thể tánh tịnh minh (4)
Sư Phụ ban cho Pháp Hiệu ...ấn chứng làm tin
Nhưng Hạnh Đầu Đà sáng ngời được tán dương kính phục (5)
Tuyệt diệu nhất mọi pháp yếu nằm trong di chúc (6)
Muốn thấu triệt cần quá trình tu tập thâm sâu
Mỗi pháp môn như tóm gọn với một câu
Hành giả phải có cái Thấy như bài kệ thị tịch (7)
Kính tri ân Giảng Sư ...
....Lồng trong bài pháp thoại với nhiều điển tích
Từ khúc nhạc KHỔNG VỌNG VI tấu bởi Bá Nha (8)
" Nhãn kiến vi thực " không nằm trong nội tình ..khó nhận ra
Và vua Lý Thái Tông ...khởi công xây chùa Diên Hựu (9)
Từ ngàn năm trước ......thiền sư Việt Nam
..... đã xiển dương Pháp Bảo thành tựu !
Nam Mô Thiền Sư Cứu Chỉ tác đại chứng minh .
Huệ Hương
Melbourne 5/8/2021
(1) Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba tôn giáo có vị trí quan trọng, chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng, văn hóa, giáo dục Việt Nam trong thời kì phong kiến. Điều này đã được minh chứng bằng tư tưởng Tam giáo đồng nguyên, tư tưởng rường cột của chế độ chính trị, giáo dục dưới triều đại Lý –
Là tâm điểm của những giao thoa Đông - Tây cũng như sự du nhập của các tôn giáo, tín ngưỡng, thế nhưng, ngay từ ban đầu triều đại nhà Lý đã sớm tìm ra sự dung hòa giữa những tôn giáo đối nghịch bởi luôn đề cao, tôn trọng tinh thần nhân văn và sự đoàn kết. Và điều này được minh chứng sinh động bằng tinh thần Tam giáo đồng nguyên, tư tưởng rường cột của chế độ chính trị cũng như đời sống tôn giáo tín ngưỡng trải suốt những năm dưới chế độ quân chủ chuyên chế của nước ta.
NHO GIÁO là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội.
Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :
NHO GIÁO là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội. Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :
- Về Tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và Người tương quan với nhau.
- Về Thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.
- Về Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn giáo rất cao minh của nhân loại, đã phát huy ra từ xưa tới nay. Tuy rằng người ta đem ra thi hành không được hoàn toàn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc cái tinh thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quí trọng đặc biệt.
*Khổng Tử ( 551- 479 trước Tây Lịch ) Nhà khai sáng Nho giáo, triết gia lỗi lạc người Trung Quốc
*Mặc Tử (479-381) một trong 7 đại triết gia của Người Trung Quốc đời Chu Tần
LÃO GIÁO. Lão giáo chủ yếu dạy về chữ ĐẠO, nên Lão giáo cũng được gọi là Đạo giáo: Tôn giáo dạy về chữ Đạo. Lão giáo còn được gọi là Tiên giáo.
Quyển sách căn bản của Lão giáo là Đạo Đức Kinh, do Đức Lão Tử viết ra. Trong quyển sách này, Đức Lão Tử bàn luận nhiều về chữ ĐẠO. Theo Đức Lão Tử, ĐẠO là cái vô danh có trước Trời Đất, không hình hài, yên lặng trống không, huyền diệu vô cùng, tạo ra Trời Đất và hóa sinh vạn vật. Cái mà ông không biết nó là gì ấy, ông tạm gọi nó là Đạo.
Lão giáo chủ trương xuất thế, không tham dự việc đời, khác hẳn với Nho giáo (Khổng giáo) chủ trương nhập thế. Chỉ có bực thượng trí với tâm hồn phóng khoáng mới tiếp thu được Lão giáo.
Lão Tử (571 - 471 trước Tây Lịch )
Kế tục Lão Tử có Trang Tử, Liệt Tử,
Trang Tử (369-286 trước Tay Lịch ) đặc sắc hơn cả, sáng tác ra Nam Hoa Kinh khi ẩn tu tại núi Nam Hoa, làm sáng tỏ thêm học thuyết của Lão Tử.
Vậy Giáo lý của Tiên giáo được giảng rõ trong 2 cuốn kinh:
- Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử.
- Nam Hoa Kinh của Trang Tử, còn gọi là sách Trang Tử.
Được biết thêm theo lời Giảng Sư tại Trung Hoa thời ấy nếu có cháy tại Thư Viện hay tàng kinh các thì Bộ Kinh tượng trưng cho Phật Giáo chính là Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng
PHẬT GIÁO gồm năm thừa:
Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.
Riêng người Phật Tử giữ được năm giới của Nhân thừa thôi là đã có nhân cách và một đời sống hạnh phúc viên mãn rồi
(2) Sư họ Đàm, quê ở làng Phù Đàm, phủ Chu Minh. Thuở nhỏ Sư rất ham học, đọc suốt các sách Tam giáo. Một hôm, Sư tự than :
“Khổng và Mặc câu chấp về lẽ có, Lão và Trang đắm đuối về lẽ không, những sách thế tục chẳng phải phương pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có hay không, có thể liễu thoát sanh tử, nhưng phải siêng năng tu trì giữ giới thanh tịnh và tìm thiện tri thức ấn chứng mới được.”
Nhân đó Sư xả tục xuất gia, tìm đến Ấp Sơn, chùa Cảm Ứng xin làm đệ tử Trưởng Lão Định Hương.
(3) Cứu cánh là Sự giác ngộ rốt ráo, tức chỉ quả Phật. Cũng gọi Vô thượng giác, Chính giác, Đại giác.
Là Thủy giác trong bốn giác nói trong luận Đại thừa khởi tín. Là giai vị rốt ráo trong Thủy giác. Tức là trí giác ngộ của Bồ tát đã chứng biết nguồn gốc của vọng tâm, là sự giác ngộ, trong đó trí thủy giác đã khế hợp với lí bản giác.
Vì người đã chứng quả Phật, có thể biết rõ cái nguồn của tâm ô nhiễm, xa lìa các vọng niệm vi tế, thấy suốt được tâm tính, tâm người ấy là thường trụ, cho nên cái biết của họ là cái biết rốt ráo, gọi là Cứu cánh giác.
Lại vì giai vị Cứu cánh giác này đã dứt hết hoặc vô minh, thấy suốt thực tướng của các pháp, đến ngôi vị rốt ráo cùng tột, cho nên gọi là Cứu cánh vị (tức là quả vị Phật).
Trái lại, giác của định Kim cương dụ trở xuống, vẫn chưa chứng biết được nguồn tâm một cách rốt ráo, cho nên gọi là Phi cứu cánh giác. Ngoài ra, hết thảy tâm tướng cuối cùng là diệt cái ảo, chứ không phải diệt thể của tâm, gọi là Cứu cánh diệt.
(4)
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi:- Thế nào là nghĩa cứu cánh ?
Trưởng Lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư:- Hiểu chưa ?
Sư thưa:- Chưa hiểu.
Trưởng Lão bảo:- Ta đã cho ngươi nghĩa cứu cánh.
Sư suy nghĩ.
Trưởng Lão bảo:- Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng Lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.
(5) Hạnh Đầu Đà theo Gương Ngài Đại Ca Diếp ( đệ tử nối pháp Chánh Nhãn Tạng của Như Lai ) thực hiện qua 13 điều sau :
1- Chỉ mặc y phấn tảo (vải dơ, bẩn thỉu người ta quăng bỏ nơi đống rác, nơi nghĩa địa (bó tử thi), lượm về, giặt sạch, tự may lấy). Nguyện suốt đời không mặc y tốt người ta dâng cúng. 2- Chỉ mặc 3 tấm y (y lót trong, y mặc ngoài và y đắp), có tấm thứ tư phải xả bỏ. 3- Chỉ giữ hạnh đi khất thực (xin ăn cao thượng), không nhận bất cứ ai mời thỉnh trai tăng. 4- Chỉ tuần tự đi khất thực từng nhà một, không được lựa chọn nhà này mà bỏ nhà kia. 5- Chỉ ngồi một chỗ mà thọ thực, một lần, đứng lên rồi là không được dùng bất kỳ thứ gì nữa. 6- Chỉ thọ thực ở trong bát, một bát, không được dùng ngoài bát hay bát thứ hai. 7- Không được dùng hậu thời (sau ngọ), khước từ tàn thực, khước từ mời mọc vật thực cúng dường sau đó. 8- Hạnh trú ở rừng – không được cư ngụ trong làng, thị trấn… 9- Ngụ dưới gốc cây, tàn cây – từ chối chỗ có che lợp hoặc liêu thất, tịnh xá. 10- Ngụ giữa khoảng trống, chỗ không có mái che, không có cả tàn cây, bóng cây. 11- Ngụ ở mộ địa, chỗ người ta chôn hay thiêu xác chết. 12- Chỗ tăng chỉ định đâu thì ở đó, không kén chọn. 13- Ngăn oai nghi nằm. Nguyện suốt đời chỉ đi, đứng, ngồi chứ không nằm. Theo Đại thừa nghĩa chương thì có
(6)
khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Sư sắp tịch, bèn gọi môn đồ đến dạy:
- Phàm tất cả các pháp môn vốn từ tánh của các ngươi, tánh tất cả các pháp vốn từ tâm của các ngươi.
-Tâm pháp nhất như, vốn không hai pháp.
-Phiền não trói buộc, tất cả đều không.
-Tội phước phải quấy, tất cả đều huyễn.
-Không cái nào chẳng phải quả, chẳng phải nhân.
-Không nên ở trong nghiệp mà phân biệt báo, không nên ở trong báo mà phân biệt nghiệp, nếu có phân biệt thì chẳng tự tại.
-Tuy thấy tất cả pháp mà không có chỗ thấy, tuy biết tất cả pháp mà không có chỗ biết.
-Biết tất cả pháp lấy nhân duyên làm gốc.
-Thấy tất cả pháp lấy chánh chân làm tông.
-Tuy chuyên nơi thật tế mà rõ thế gian đều như biến hóa.
-Rõ thấu chúng sanh chỉ là một pháp, không có hai pháp.
-Chẳng rời cảnh nghiệp mà phương tiện khéo léo,
-ở trong cõi hữu vi hiện bày pháp hữu vi mà không phân biệt.
-Tướng vô vi là do hết dục, dứt ngã, quên niệm mà nhận lấy vậy.
(7) Sư nói kệ:
Sư nói kệ:
Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông các tướng biến hiện tiền.
Hữu vi vô vi từ đây có,
Thế giới hà sa không thể lường.
Tuy nhiên đầy khắp cõi hư không,
Mỗi mỗi xem ra chẳng tướng hình.
Muôn đời ngàn đời nào sánh được,
Chốn chốn nơi nơi thường rạng ngời.
(Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng.
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quan lai một hình trạng.
Thiên cổ vạn cổ nan tỷ huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng.)
Nói xong, Sư ngồi yên thị tịch.
(8) Một bài học đạo đức đã làm sáng mắt Bá Nha, đừng khinh chê mọi người là ngu dốt, chỉ có một mình là trí tuệ thông minh, văn hay chữ tốt.
“Nghe câu trả lời ấy Bá Nha hơi ngượng, biết mình đã lỡ lời, liền vội vã bước ra trước mũi thuyền hỏi:
- Nếu kẻ trên bờ quả thật là một người biết nghe đàn thì đây ta hỏi thử, vậy chớ ta vừa gảy khúc gì đó?
Giọng nói trên bờ vẫn bình thản vọng xuống:
- Đó là khúc “Khổng Vọng Vi” than cái chết của Nhan Hồi, nhưng vì bị đứt dây nên mất một câu chót. Khúc ấy như sau:
“Khả tích Nhan Hồi mệnh tảo vương
Giáo nhân tư tưởng, mấn như sương!
Chỉ nhân lậu dạng, đan, biểu lạc,”
Dịch:
“Khá tiếc Nhan Hồi sớm mạng vong
Tóc sương rèn đúc lấy nhơn tâm!
Đan, biểu ngõ hẹp vui cùng đạo,”
Còn khúc chót như sau:
“Lưu đắc hiền danh vạn cổc ương”.
Dịch:
“Danh tiếng lưu truyền vạn cổ niên”.
(9)
Sau, Sư lên chùa Quang Minh, núi Tiên Du (Bắc Ninh) ở luôn trong đó chuyên tu hạnh Đầu-đà, trọn năm không bước chân xuống núi. Tiếng đồn tới kinh đô, vua Lý Thái Tông cho mời mấy phen mà Sư không đến. Đích thân vua ba lần đến chùa Sư thưa hỏi. Thái sư Lương Văn Nhậm rất kính trọng Sư.
Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054-1059), Tể tướng Dương Đạo Gia lập chùa Diên Linh trên núi Long Đội, Yên Lãng thỉnh Sư trụ trì. Cố từ chối mà không được, Sư đành hạ sơn. Ngày ra đi, Sư nói: “Ta chẳng trở lại đây nữa.” Cầm thú trong núi kêu buồn suốt ba tuần mà chưa dứ
Trong triều đại Vua Lý thái Tông ngôi chùa Diên Hựu ( Chùa Một Cột ) được khởi công xây cất :
Chùa Một Cột có tên ban đầu là Liên Hoa Đài (蓮花臺)[1][2][3] có tức là Đài Hoa Sen với lối kiến trúc độc đáo: một điện thờ đặt trên một cột trụ duy nhất. Liên Hoa Đài là công trình nổi tiếng nhất nằm trong quần thể kiến trúc Chùa Diên Hựu (延祐寺)[1][4], có nghĩa là ngôi chùa "Phúc lành dài lâu". Công trình Chùa Diên Hựu nguyên bản được xây vào thời vua Lý Thái Tông mùa đông năm 1049[5] và hoàn thiện vào năm 1105 thời vua Lý Nhân Tông[6] nay đã không còn. Công trình Liên Hoa Đài hiện tại nằm ở Hà Nội là một phiên bản được chỉnh sửa nhiều lần qua các thời kỳ, bị Pháp phá huỷ khi rút khỏi Hà Nội ngày 11/9/1954[7][8][9][10] và được dựng lại năm 1955 bởi kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng theo kiến trúc để lại từ thời Nguyễn. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.
Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệkhuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm tòa sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
Nhân ngày giỗ Tổ năm nay, tôi được Thượng tọa Thích Minh Hiền, Trụ trì Tùng lâm Hương Tích cho biết rằng, mùa an cư năm nay, Kỷ hợi, 2019, Thường trực Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo thành phố Hà Nội đã quyết định giảng bộ sách TRUY MÔN CẢNH HUẤNtại các trường Hạ trên toàn thành phố. Với túc duyên này, chư Tăng Tùng lâm Hương tích và Phật tử Đạo tràng Chân Tịnh chùa Hương đã biên tập và ấn tống tái bản lần thứ hai sách Truy Môn Cảnh Huấn để cúng dàng Chư tôn đức Tăng Ni trong 18 Hạ trường của Phật giáo Thủ đô.
Truyện Thạch Sanh Lý Thông có liên hệ gì với tư tưởng Phật giáo? Nơi đây, chúng ta thử suy nghĩ về chủ đề này, trong dịp Giáo sư Nguyễn Văn Sâm biên dịch, chú giải và ấn hành Truyện Thơ Thạch Sanh Lý Thông.
Truyện cổ tích Thạch Sanh Lý Thông được kể qua văn học truyền khẩu nhiều thế kỷ trước khi xuất hiện truyện thơ cùng tên. Thường được gọi tắt là truyện Thạch Sanh. Do vì xuất sinh từ văn học truyền khẩu, nên có nhiều phiên bản khác nhau.
Những tiếng gọi chậm rãi, ân cần, chợt vọng lên từ đáy lòng sâu thẳm khi thời công phu khuya vừa dứt. Những tiếng gọi hòa quyện vào nhau, nhịp nhàng đồng điệu như một bản hòa tấu. Tiếng gọi của Hồn Thiêng Sông Núi, của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, của những vị ân sư đã đến rồi đi, đang còn rồi sẽ mất, của những ngôi chùa làng quê, của giòng sông, của vách núi …. Tất cả, như những âm thanh vọng từ cõi tâm hương nào, tuy nghìn trùng mà như gang tấc, tưởng chiêm bao mà như hiện thực đâu đây …
Những âm thanh đó đã khiến thời công phu khuya dường như bất tận, để khi ánh dương lên, tôi biết, tôi sẽ phải làm gì.
Đứng lên.
Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly,
Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà.
Có rừng cổ thụ ta-la,
Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng.
Tay Phật cầm nhánh lan rừng
Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan!
Đạo ta như khói chiên đàn,
Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.
Hôm nay là ngày 30.04.2019, ai trong chúng ta không nhớ đến ngày 30.04.75 cái ngày đen tối nhất trong lịch sử đất nước, ngày mà mọi người hoảng loạn vì tỵ nạn cộng sản, ai cũng tìm đường ra đi bằng mọi cách nhất là những người đã sống với cộng sản sau ngày Cộng sản tràn về Hà Nội, tuyên bố Độc Lập, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, cái mỹ từ đó nghe quá đẹp đẽ nhưng đằng sau đó lại là những áp bức bất công đầy dẫy, để san bằng giai cấp cộng sản đã không từ cái gì cả, mọi người tố cáo nhau để dành quyền lợi, cả xã hội đảo lộn vì họ chỉ tin vào lý thuyết duy vật, vô thần và trong đầu mọi người Đáng Cộng sản chỉ nhồi sọ một thứ ảo tưởng xa vời là tiến lên một xã hội công bằng, đẹp đẽ, mọi người đều có quyền lợi ngang nhau, không ai được phép giàu hơn ai cả nên họ tẩy não mọi người nhất là tầng lớp tiểu tư sản mà họ cho là luôn ăn trên ngồi trước mọi người, cũng vì vậy mà có cuộc di tản 1954 từ Bắc vào Nam của những người dân Miền Bắc.
Gần đây khi tiếp xúc với một số bạn đồng cảnh ngộ , bạn tôi thường cười đùa với nhau và đôi khi ôm chầm lấy tôi và nói thì thầm vào tai tôi " đời người chính là sự cô đơn, khi mình càng hiểu ra được điều này sớm bao nhiêu thì càng dễ tìm được hạnh phúc bấy nhiêu." . Một đôi khi cô bạn còn cười khúc khích đánh mạnh vào vai tôi rồi nói " hơn thế nữa, bạn thân tôi ơi , bạn có biết không cô đơn thực ra là một trạng thái cuộc sống cao cấp hơn thôi, bởi nó dạy bạn cách quan tâm, chăm sóc hơn đến nội tâm của mình một cách chu đáo và cẩn thận hơn "
Hòa Thượng THÍCH NHƯ ĐIỂN
Mối Tơ Vương của
Huyền Trân Công Chúa
(Phóng tác lịch sử tiểu thuyết
vào cuối đời Lý đầu đời Trần)
Phật lịch 2.562 – Mậu Tuất 2018
Xuất bản năm 2018 - Xin vô vàn niệm ân tất cả những ai đã quan tâm đến tác phẩm nầy trong nhiều năm tháng qua, khi tôi có dịp giới thiệu với quý vị ở đâu đó qua những buổi giảng, hay những câu chuyện bên lề của một cuộc hội thoại nào đó. Tuy nhiên vẫn có một số vị vẫn muốn biết vì sao tôi viết tác phẩm phóng tác lịch sử tiểu thuyết nầy. Dĩ nhiên là không nói ra, khi xem sách hay xem tuồng cải lương nầy do soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành ở Việt Nam biên soạn thì độc giả sẽ hiểu nhiều hơn, nhưng có nhiều vị xem dùm tôi trước khi in ấn đều mong rằng nên có lời dẫn nhập để tác phẩm nầy hoàn chỉnh hơn. Đây là lý do để tôi viết những dòng chữ nầy.
Một chàng vượt biển đi xa
Thuyền qua ngọn sóng bất ngờ đánh rơi
Chén bằng bạc quý sáng ngời
Chén rơi xuống biển và rồi chìm sâu
Chàng bèn làm dấu thật mau
Hông thuyền ghi lại để sau dễ tìm
Rồi chàng tiếp tục chèo thuyền
Trong tâm tự nghĩ: “Nào quên dễ gì
Nó bị người ta tra tấn hành hạ rất dã man, quá đói mà không có gì ăn phải ăn cả vỏ bánh kẹo của du khách, bây giờ nó đã được giải thoát và sống cuộc sống vui vẻ, tự do.
Trong suốt 50 năm, chú voi Raju sống một kiếp sống nô lệ. Không ai biết cuộc đời trước kia của nó là như thế nào, chỉ biết rằng nó đã bị bắt cóc khỏi mẹ và tách khỏi bầy từ khi còn rất nhỏ, rồi được bán đi bán lại qua tay của 27 người chủ khác nhau như một món hàng hóa, để rồi cuối cùng chôn vùi cuộc đời mình tại một sở thú ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.