Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ác giả ác báo là có căn cứ khoa học

20/09/202009:06(Xem: 4887)
Ác giả ác báo là có căn cứ khoa học
vo chong tan coi


Ác giả ác báo là có căn cứ khoa học



Mới đây, Đại học Gaddafi (Anh) và trường Đại học Texas (Mỹ) đã cùng thực hiện một nghiên cứu và chứng minh được rằng “ác hữu ác báo” là hoàn toàn có căn cứ khoa học. 

Tâm hồn giữ thiện niệm và suy nghĩ tích cực thì khoẻ mạnh hơn

Theo thống kê cho thấy, những tội phạm tuổi thiếu niên thường có cơ thể khỏe mạnh hơn những thiếu niên biết tuân thủ pháp luật ở cùng độ tuổi. Nhưng sau khi họ bước vào tuổi trung niên thì tình hình sức khỏe lại xuống dốc nhanh chóng, nguy cơ nằm viện và bị tàn tật cao hơn nhiều lần so với người bình thường. Điều này khá dễ hiểu, rất có thể là có quan hệ tới thói quen sinh hoạt không tốt và trạng thái tâm lý tạo thành. 



Nghiên cứu của các nhà khoa học còn phát hiện một hiện tượng kỳ lạ khác. Khi trong tâm hồn người ta tồn giữ thiện niệm và suy nghĩ tích cực thì cơ thể sẽ tiết ra một chất truyền dẫn giúp tế bào được khỏe mạnh. Tế bào miễn dịch cũng trở nên hoạt bát hơn, bởi vậy người ta sẽ không dễ ốm đau, bệnh tật. 

Nếu thường giữ trong mình những suy nghĩ chân chính thì hệ thống miễn dịch của con người sẽ rất mạnh mẽ, không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào của thuốc men. Khi trong tâm lưu giữ ác niệm, ý định xấu thì hệ thống thần kinh cũng sẽ chịu ảnh hưởng ngược lại. Tức là những nhân tố tiêu cực bị kích hoạt và khởi động, còn các yếu tố tích cực lại bị ức chế, cơ chế lành mạnh của cơ thể bị phá hoại. 

Vậy nên những người lương thiện quả thực thường sống khỏe mạnh và trường thọ. Còn những kẻ hành ác lại phải chịu những dày vò về thể xác khi chỉ mới bước qua tuổi trung niên. 

Trong hình dưới đây là vợ chồng tham quan tàn bạo khét tiếng Trung Hoa đời nhà Tống là Tần Cối và Vương Thị. Tần Cối tên hiệu là Hội Chi (1090 - 1155), là Thừa tướng của nhà Tống, bị đánh giá là một Hán gian vì đã hại chết Nhạc Phi, anh hùng chống quân Kim. Sau khi đầu hàng người Kim, Tần Cối tiếp tục hãm hại trung lương. Tần Cối và vợ là Vương Thị được người đời sau đúc thành tượng đồng, bắt quỳ ở miếu Nhạc Phi, đời đời phải chịu phỉ nhổ.


Tư tưởng tiêu cực khiến cơ thể phát sinh độc tố

Một tạp chí của Mỹ từng đăng tải một báo cáo nghiên cứu với chủ đề: “Tâm trạng xấu sinh ra chất độc”. Trong báo cáo nói rằng: “Theo thí nghiệm trong phòng thực nghiệm tâm lý, thì ác niệm của con người chúng ta có thể dẫn tới những thay đổi về chất hóa học trong sinh lý, sẽ sinh ra một loại độc tố trong huyết dịch. Khi con người ở trạng thái bình thường, hà hơi vào trong một cốc đá lạnh thì sẽ đọng lại một thứ vật chất trong suốt không màu. Còn khi con người ở trong trạng thái oán hận, giận dữ, khiếp sợ, đố kỵ thì thứ vật thể đọng lại sẽ lần lượt cho ra những màu sắc khác nhau. Thông qua phân tích hóa học cho thấy, tư tưởng tiêu cực của con người sẽ khiến bên trong cơ thể người ấy sinh ra độc tố”. 

Gần đây, trường Đại học Yale và Đại học California đã tiến hành một nghiên cứu với chủ đề “Mối quan hệ xã hội ảnh hưởng như thế nào tới tỷ lệ tử vong”.

Các chuyên gia đã chọn ra ngẫu nhiên 7.000 người và tiến hành theo sát điều tra trong vòng 9 năm. Thống kê cho thấy, những người vui vẻ giúp đỡ người khác và sống hòa hợp có trạng thái sức khỏe và tuổi thọ dự đoán tốt hơn nhiều so với những người luôn có ý nghĩ xấu, lòng dạ hẹp hòi, và gây tổn hại tới lợi ích của người khác. 

Tỷ lệ tử vong của những người mang ác tâm cao hơn người bình thường từ 1,5 – 2 lần. Kết quả nghiên cứu này cũng đúng với người ở các dân tộc, giai tầng khác nhau có các thói quen rèn luyện sức khỏe khác nhau. Cuối cùng, các nhà khoa học kết luận: “Hành thiện có thể kéo dài tuổi thọ của con người”. 

Nhiều thực nghiệm khác cũng rút ra kết luận tương đồng. Tức là trạng thái tư tưởng thuần tịnh, từ bi, tích cực có thể khiến sinh mệnh khỏe mạnh, hạnh phúc. Còn những người có ác niệm sẽ khiến kết cấu cơ thể mất cân bằng và kèm theo diễn biến bệnh lý. Đây được coi là phát hiện trong lĩnh vực sinh lý y học. 

Những điều này sớm đã được tường thuật một cách có hệ thống trong những cuốn sách cổ của Á Đông vài nghìn năm trước. Nếu Khổng Tử từng nói “Nhân giả Thọ” (Người có lòng nhân thường sống thọ), thì trong những sách y học cổ cũng từng giảng: “Chính khí tồn nội, tà bất khả can” (Trong lòng tồn giữ chính khí thì tà không thể can nhiễu). 

Những người vô thần cũng thường nói, đây chỉ là tác dụng ám thị về ý thức tâm lý. Họ cho rằng, đạo đức là do con người đặt ra, không hề có một tiêu chuẩn cố định nào. Thiện ác cũng không có tiêu chuẩn cố định, người tốt hay người xấu cũng do con người tự mình định nghĩa mà thôi. 

Nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học phát hiện rằng thiện và ác có những tần số năng lượng khác nhau, những đặc tính vật chất khác nhau. Những đứa trẻ vừa chào đời không lâu, chưa từng trải qua sự giáo dục nhưng đều đã có bản tính lương thiện của mình.

Khi muốn nói dối, bắt nạt người khác, dẫu vẻ mặt người ta ổn định thế nào, không để lộ cảm xúc ra sao nhưng trạng thái tâm lý đều sẽ biến đổi một cách không thể tự chủ. Nghĩa là trạng thái tâm lý này vận hành một cách khách quan, không tùy thuộc vào việc người ta nghĩ gì, điều khiển ý thức ra sao. Nguyên lý ấy đã được người ta đưa vào ứng dụng cho các máy dò nói dối, máy trắc nghiệm tâm lý. 

Bí ẩn của nước cho thấy vạn vật đều có linh


Đầu thế kỷ 21, nghiên cứu về trạng thái kết tinh của nước đã gây chấn động toàn thế giới cho thấy khái niệm thiện ác trong tự nhiên hầu như đã có tiêu chuẩn khách quan, không phải điều hư cấu mà bản thân con người tạo ra. 

Khi nước được tiếp xúc với những tín hiệu tốt như sự từ bi, bác ái, hạnh phúc, khích lệ hoặc khi ở trong một trường năng lượng âm nhạc mỹ diệu, kết tinh của nước sẽ thể hiện ra những hình dạng lung linh, kỳ diệu và chắc chắn. Còn nếu khi nước tiếp xúc với những thông tin tiêu cực, thì cấu tạo của kết tinh nước lại biến dị, cong vẹo, thậm chí là phân tán không thể thành hình.

Nước là cội nguồn của sinh mệnh, trong cơ thể người có hơn 70% vật chất đều là nước. Khi con người ở những trạng thái khác nhau, tích cực hay tiêu cực, thì cơ thể của họ có thể cũng đang xảy ra sự biến đổi y như tinh thể nước vậy.

Những nghiên cứu khác về “Trải nghiệm cận tử” và “Thôi miên quay trở về kiếp trước” vào cuối thế kỷ 20 đã cho thấy rằng: Sinh mệnh luân hồi, không gian khác, nhân duyên quả báo, thậm chí là thiên đường và địa ngục hóa ra đều tồn tại. Con người khi làm việc xấu, không đối xử tốt với ai, nếu đời này chưa thể chịu báo ứng ngay lập tức thì rất có thể sẽ tiếp tục phải bồi hoàn ở đời sau, cho tới khi bồi hoàn hết thảy mọi nghiệp lực.

Thậm chí những vai diễn người ấy đóng khi đầu thai chuyển sinh cũng có quan hệ trực tiếp tới sự tích lũy nghiệp lực của đời trước. Điều này cũng giống như một câu nói cổ của  người Á Đông: “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo, không phải không báo, là chưa đến lúc. Khi nào đến lúc, thứ gì cũng
báo”. 
Trong lịch sử trong những câu chuyện có thật xảy ra nhiều vô kể. Chúng soi chiếu lẫn nhau, cùng với khoa học chứng thực ngày nay đang từng bước chứng minh rằng quy luật nhân quả là hoàn toàn có thực.

Phía sau thế giới vật chất đều tồn tại đặc tính vận hành của vũ trụ

Vì sao sau khi con người làm việc xấu lại gặp phải báo ứng? Phía sau những hiện tượng bề mặt của thế giới vật chất này, phải chăng có bàn tay của tạo hóa mà chúng ta không nhìn thấy đang an bài tất cả những điều này?

Cổ nhân có câu rằng: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”, “Thiện ác nếu không báo, càn khôn ắt vị tư”. Phép vận hành của vũ trụ là công bằng, đó là một sự đảm bảo khiến vòng chu chuyển được ổn định, có thể cân bằng hết thảy mọi loại vật chất, khiến cho người lương thiện nhận được phúc báo, kẻ xấu phải chịu ác báo.

Nhưng vì sao những người làm việc xấu lại phải gánh chịu tai nạn, ma nạn và quả báo? Vì sao lại để người tốt được điều tốt, mà không phải là để người xấu được điều tốt?

Điều này phải chăng đã tiết lộ một sự thực lớn hơn rằng: Phía sau thế giới vật chất chắc chắn có tồn tại quy luật hoặc thứ gọi là đặc tính vận hành. “Thiện” chính là phù hợp với đặc tính này nên mới được dài lâu. “Ác” vì đi ngược đặc tính của vũ trụ và đạo pháp căn bản nên dễ chuốc lấy bại vong. Điều ấy cũng giống như Lão tử nói: “Thiên đạo không có người thân, thường ở với người hiền” (Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân).

Dẫu hàng trăm hàng nghìn năm trôi qua, thiện ác hữu báo vẫn luôn được truyền miệng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Rất nhiều cuốn sách cổ cũng đều ghi chép lại một lượng lớn những ví dụ có thực vô cùng sinh động, có thể chứng minh tính chân thực của thiện ác hữu báo. Nhưng quá trình người thiện nhận báo đáp, người ác nhận báo ứng thì lại không mấy rõ ràng. Rốt cuộc thì không ai nhìn thấy mối quan hệ chuyển hóa trong quá trình này, mà chỉ đơn thuần nhìn thấy kết quả báo ứng mà thôi.

Giữa sự cho đi và báo đáp có quá trình chuyển đổi bí mật với một nguồn năng lượng thần kỳ. Giáo sư ngành “Sinh mệnh luân lý học” của trường Đại học Case West store và tiểu thuyết gia Jill Naimak xuất phát từ góc độ khoa học và y học đã tiến hành nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa việc hành thiện, “cho đi”, “báo đáp” có mối quan hệ gì.

Nhà nghiên cứu đã chế định một bảng trắc nghiệm chi tiết và giám sát trường kỳ những người thích cho đi và những cách “báo đáp” khác nhau cho từng kiểu “cho đi” đó. Những người có trái tim nhân hậu, thích hành thiện, bố thí quả thực có năng lực xã hội, phán đoán và cảm xúc đều thăng hoa toàn diện. Dẫu chỉ là những hành động đơn giản như mỉm cười từ đáy lòng với người khác hay một nét mặt hài hước, thân thiện cũng đều khiến nồng độ protein của tế bào miễn dịch có trong nước bọt tăng lên.

Sau khi tổng kết số liệu của các báo cáo công phu trong suốt một thời gian dài, họ đã có được thông tin khiến người ta kinh ngạc. Những hành động lương thiện của con người, ví như khen ngợi, khoan dung, dũng cảm, hài hước, tôn trọng, đồng cảm, trung thành… cho thấy: Giữa sự cho đi và báo đáp có quá trình chuyển đổi bí mật với một nguồn năng lượng thần kỳ.

Tức là khi một người cho đi thì năng lượng báo đáp đồng thời sẽ quay trở về người này theo các hình thức khác nhau. Điều này là hoàn toàn khoa học, hết sức thực tại, chỉ là trong đa số tình huống như vậy bản thân người “cho đi” không hề biết gì, không có cảm nhận gì. 

Khi tĩnh tại, quá trình lão hóa đại não có thể bị “đảo ngược”

Trên thực tế, trong cuốn “Hoàng Đế nội kinh”, tác phẩm y học nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại đã nói: “Tĩnh thì tàng thần, nóng thì tiêu vong”. Tinh thần con người ở trong trạng thái nhẹ nhàng, trầm tĩnh thì có thể tồn giữ chân khí trong tâm, được bình an. Kỳ thực, ý nghĩa của tĩnh rất rộng lớn, không chỉ đơn là sự thuần tĩnh tại bất động.

Khoa học chứng minh thiền định có thể sản sinh năng lượng siêu thường. Tĩnh chính là trong ma sát với những nhân tố bên ngoài, người ta có thể dùng trái tim khoáng đạt mà bao dung, thứ tha cho người khác. Đó hoàn toàn là một trạng thái vượt xa với cái cách người ta tranh đấu kịch liệt hay xổ ra một tràng những lời miệng lưỡi sắc nhọn như đao kiếm khiến người khác tổn thương. Nghiên cứu khoa học hiện đại chứng minh rằng sau khi con người nhập tĩnh, đại não có thể quay trở lại trạng thái sóng điện của thời ấu thơ, khiến quá trình lão hóa tạm thời bị “đảo ngược”.

Thiện ác hữu báo là nền tảng sinh tồn của nhân loại

Khoa học chứng thực hiện đại rất chú trọng tới căn cứ. Chỉ khi có một lượng lớn những căn cứ khoa học, con người mới thừa nhận và nhận thức một loại sự vật nào đó. Điều đó đã khiến rất nhiều truyền thống lưu lại từ những niên đại xa xưa, vì sự hạn cuộc của biện pháp tìm kiếm khoa học, mà luôn bị nhân loại bài xích và dị nghị. Thiện ác hữu báo (nhân quả) cũng là một trong số những ví dụ đó.

Tuy vậy, từ những nghiên cứu khoa học này có thể thấy được rằng, thiện ác hữu báo đã trở thành quy luật nền tảng vận hành cho toàn bộ xã hội nhân loại. Các nhà khoa học cũng chứng minh rằng niềm tin vào thiện ác hữu báo của cổ nhân hoàn toàn không phải là những mê muội, phong bế trong tư tưởng. Trái lại, đó là cái nhìn vô cùng khoa học, nhắm thẳng vào bản chất của sinh mệnh và vũ trụ. 

Minh hoạ cho lập luận "ác giả ác báo" là một quy luật của vũ trụ, Phatgiao.org.vn sẽ kể lại cùng quý vị cuộc đời bị nghiệp báo những đại gian thần mưu mô nham hiểm trong lịch sử Trung Hoa trong những bài viết tiếp theo.

 


Ác giả ác báo và chuyện vợ chồng gian thần Tần Cối bị phỉ nhổ muôn đời

Gần 1000 năm qua, nghiệp ác mà Tần Cối gây ra dù đã bị quả báo nhưng vẫn chưa thể gột rửa hết, vẫn phải chịu sự phỉ nhổ của người đời. Thế mới thấy uy lực của luật nhân quả mạnh mẽ tới mức nào.

 

Ngày xưa, gian thần khét tiếng triều nhà Tống Trung Quốc là Tần Cối vì lấn át bề trên, hại chết danh tướng chống nhà Kim là Nhạc Phi mà bị người đời căm ghét. Theo ghi chép trong sách, Tần Cối từng ép một thầy phong thủy tìm một mảnh đất cát lợi, phong thủy tốt để an táng tổ tông, với hi vọng giúp con cháu đời sau đều có thể trở thành vương, hậu.

Vì bị ép buộc, đại sư phong thủy không thể không thực hiện chỉ lệnh, sau một thời gian cũng tìm đúng long huyệt nhưng trước khi rời đi, người này đã phẫn nộ nói: “Nơi này nếu phát sẽ không còn thiên lý”. 

Đại sư phong thủy đó chính là Lại Bố Y, tên thật là Lai Phong Cương, tự Văn Tuấn, được người đời coi là “Tiên Tri Sơn Nhân”. Trước khi trở thành đại sư phong thủy, ông từng làm tới chức quốc sư, tức là cao nhân ở bên cạnh hoàng đế. Ông cũng bị chính Tần Cối hãm hại đến mức phải lưu lạc nhân gian. 


Sau khi "yểm" thêm câu nói trên, gia đình ông lập tức dọn đi, dư cư về phương nam để tránh sự bức hại của Tần Cối. Theo học thuyết phong thủy dịch lý, địa lý ở đây ý chỉ nguyên lý long mạch của thế đất. Thầy phong thủy thường dựa vào thế đất để tính toán, tìm ra long mạch của khu đất, chỗ nào có nhiều sinh khí vận hành sẽ được lựa chọn.

Và đã là long mạch thì không thể không phát, nếu không phát, đạo lý địa linh sẽ chỉ còn là thứ giả dối, lừa gạt mọi người. Nhưng tất cả mọi chuyện trên đời đều vận động dưới cái gọi là “thiên lý” tức là quy luật của trời, hay quy luật nhân quả.

Tần Cối là hạng người hiểm ác, bất trung, nếu đời sau vẫn có thể hưởng phúc, điều đó chẳng thể hợp lẽ trời. Chính bởi thế nên thầy phong thủy mới thốt ra câu nói đầy bất mãn trước mảnh đất phong thủy do chính mình tìm ra.

Theo đó, Tần Cối vu oan cho hai cha con Nhạc Phi và một tướng khác là Trương Hiến âm mưu chống lại triều đình rồi cho giam họ vào ngục. Sau trong triều có nhiều người thấu hiểu nỗi oan ức của Nhạc Phi nên từ quan không chịu xét xử vụ án này.

Đồng thời, nhiều người lên tiếng kêu oan cho Nhạc Phi nên vợ Tần Cối là Vương thị khuyên ông ta nên hạ thủ ngay Nhạc Phi để tránh sinh lắm chuyện. Tần Cối nghe theo, sai giết Nhạc Phi trong ngục, Nhạc Vân và Trương Hiến bị chém ở chợ. Một số đại thần gần gũi với Nhạc Phi bị cách chức hoặc bị giết.


nhac phi

Tượng Nhạc Phi, trong miếu thờ Nhạc Phi ở Hàng Châu. Bốn chữ trên bảng là “Hoàn ngã hà sơn” – “Trả lại núi sông của ta”.


Cảm phục trước nghĩa khí của người Nhạc Phi, người ngục tốt tên Ngỗi Thuận mạo hiểm cả tính mệnh cõng di thể của Nhạc Phi ra khỏi thành, chôn cất ở ngôi đền Cửu Khúc Tùng bên ngoài cổng thành Tiền Đường. Ngỗi Thuận lấy miếng ngọc bội mà Nhạc Phi thường hay đeo làm vật bồi táng, bên cạnh có hai cây quýt làm ký hiệu, trên bia mộ có viết 4 chữ “Giả nghi nhân mộ”.

Lại nói về Tần Cối, sau khi được phong thủy bảo địa, Tần Cối cho chuyển mồ mả tổ tiên về đó và tỏ ra vô cùng đắc chí, cho rằng từ đây vạn sự sẽ thuận lợi, cát hóa hung, vận may sẽ đến nên cấu kết ngoại bang, hoang tưởng cho rằng bản thân có thể phong vương phong hậu.

Nhưng người tính chẳng bằng trời tính. Vào một đêm, trời bỗng tối đen như mực, gió bão nổi lên, sấm chớp đùng đùng, trời đất như gào thét, núi sông đảo lộn khiến cho long mạch bị dịch chuyển. Mảnh đất vốn dĩ là bảo địa nhanh chóng bị trở thành mảnh đất hủy diệt, ứng với vế sau trong câu nói của Lại Bố Y: “Nơi này nếu phát sẽ không còn thiên lý”. 

Thế mới thấy, phong thủy tốt hay xấu phụ thuộc vào đức hạnh và phúc phận của con người. Con người nếu có phúc phận, sống tại nơi có phong thủy dù xấu rồi cũng sẽ chuyển thành đẹp. Ngược lại, nếu sống tại nơi có thế phong thủy đẹp, thế đó rồi cũng sẽ tự bị phá vỡ.

Người đời sau xem Tần Cối là kẻ phản bội nên cho đến tận ngày nay, món bánh giò cháo quẩy của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu để hành tội.

 

vo chong tan coi

Tượng vợ chồng Tần Cối quỳ dưới đất, tại Hàng Châu.

Sau khi Nhạc Phi được giải oan, người ta đem hài cốt Nhạc Phi chôn cất trên đồi bên bờ Tây Hồ phong cảnh tươi đẹp, về sau lại dựng Nhạc Miếu ở phía đông ngôi mộ. Tượng Nhạc Phi trong bộ nhung giáp ngồi ở chính giữa điện.

Tượng Tần Cối được đúc bằng gang, cùng vợ là Vương Thị và hai kẻ theo Cối để hãm hại ông là Trương Tuấn, Vạn Sĩ Tiết bị còng tay quỳ trước mộ để người đi qua nhổ nước bọt hoặc lấy những thứ dơ bẩn nhét vào mồm. 

Hơn 800 năm nay, tượng của các gian thần này bị người đời đánh đập nhiều quá, bị hỏng nên đã phải đúc đi đúc lại tới 13 lần. Bốn bức tượng này được rào lại bằng rào sắt nhưng ngày nay từ bên ngoài người ta cũng có thể với được tay để đánh vào đầu Tần Cối khiến đầu y trở nên láng bóng. 

Trên cây trụ đá ở cửa mộ, có đôi câu đối nổi tiếng: “Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt; Bạch thiết vô cô chú nịnh thần”. Nghĩa là núi xanh may mắn lưu xương cốt người trung nghĩa, sắt trắng vô tội phải đúc ra kẻ nịnh thần.

Vậy là, gần 1000 năm qua, nghiệp ác mà Tần Cối gây ra dù đã bị quả báo nhưng vẫn chưa thể gột rửa hết, vẫn phải chịu sự phỉ nhổ của người đời. Thế mới thấy uy lực của luật nhân quả mạnh mẽ tới mức nào. Dù ác nhân nhất thời đắc ý nhưng không tránh được ngàn năm người đời phán xét. Đó cũng là lời răn cho những kẻ nuôi cái ác trong mình.


Minh Chính (Sưu tầm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5126)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11365)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9538)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7804)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3817)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6374)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87484)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6652)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4898)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4376)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]