Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân Duyên Tôi Cầm Bút

14/08/202012:02(Xem: 5652)
Nhân Duyên Tôi Cầm Bút
Tran_Thi_Nhat_Hung
Nhân Duyên Tôi Cầm Bút
 Trần Thị Nhật Hưng
Diễn dọc: Cư Sĩ Tường Dinh

 

   Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ngày phát bài, điểm của tôi gần chót lớp. Do vậy, tôi ghét văn chương, báo chí. Tôi quan niệm (hay bào chữa cho cái dở của mình) rằng, nói cho hay, cho văn vẻ chỉ đi dối gạt thiên hạ. Báo chí thì...báo nói láo ăn tiền nên chả bao giờ tôi đọc sách báo hay quan tâm văn thơ ngoại trừ nhà trường bắt buộc học, hết Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đến Truyện Kiều của Nguyễn Du hay văn chương của Tự Lực Văn Đoàn và học cả cách làm thơ...v.v...

   Học thì phải học, nhưng dốt vẫn dốt.

   Mỗi khi vào giờ Việt văn làm luận tôi khổ sở ngồi cắn bút, nhìn con bạn bên cạnh viết tràng giang đại hải mà mình chưa có chữ nào, tôi năn nỉ: “Mày viết gì mà dài thế? Cho tao xem qua chút coi„ Nó chả nói chả rằng mải miết thả hồn vào bài viết, đẩy nhẹ bài  nháp cho tôi xem qua thế là tôi copy ngay cái nhập đề của nó.

    Tôi còn...ranh mãnh, để bài luận coi sao cho dài, tôi thường viết chữ lớn, thưa, và chừa lời phê của giáo sư rộng ra để bài viết coi sao cho được. Cuối cùng, đâu qua được mắt Thầy, Cô nên mỗi lần phát bài, bài ít điểm thường đọc trước, chỉ đọc tên vài đứa là đến tên tôi. Buồn vô hạn vì những điểm luận văn ít ỏi thường kéo vị thứ của tôi tháng đó trụt xuống. Và người thường làm “xấu„ học bạ của tôi với lời phê môn luận văn “Còn kém. Cố gắng hơn„ tôi đã...hỗn hào lấy viết quẹt mấy chữ “còn kém„ và chữ “hơn„ rồi viết thêm chữ “„ trước hai chữ “cố gắng„ để thành câu “Có cố gắng„ (Trời ạ, có cố gắng mà còn đội sổ, không cố gắng thì phải đội thêm cái gì?!) chính là cô giáo Việt văn Châu Yến Loan hiện cộng tác với báo Viên Giác chuyên viết những bài tham khảo sắc bén.

   Ngày tình cờ gặp lại Cô tại Việt Nam trong dịp họp mặt trường cũ sau hơn 40 năm xa cách, Cô trò tay bắt mặt mừng kể lại bao kỷ niệm xưa rồi tôi giới thiệu báo Viên Giác với Cô.

  Với khả năng văn chương kém cỏi của tôi như thế, nhân duyên nào để tôi cầm bút viết được văn, in cả sách, cộng tác với báo chí như hiện nay, đó là câu hỏi chính tôi cũng như nhiều bạn bè học cùng lớp ngày xưa, nhất là cô bạn từng cho tôi copy (hiện định cư tại Mỹ tình cờ đọc những bài viết của tôi được đăng báo bên đó) cũng phải ngạc nhiên.

   Tôi xin giải mã sự tình sau đây.

   Đạo Phật thường hay dùng hai chữ “nhân duyên„ từ cái này mới sinh ra cái kia. Đúng vậy.

   Số là sau năm 1975, với chính sách khắc nghiệt của chế độ mới, họ căm thù và tẩy chay tất cả những gì của chế độ trước trong số đó có việc “tẩy não„ dân miền Nam. Với chiến dịch “Bài trừ Văn hóa Đồi trụy Mỹ-Ngụy„ họ ra lịnh đốt tất cả sách bị cho là phản động, ủy mị, trái với đường lối của nhà nước, mặc dù sách đó là biên khảo, giáo khoa, hay cả tiểu thuyết nội dung rất nhân bản...v.v...

    Rồi phong trào với từng đội ngũ phường, khóm đi lùng xục, kiểm tra những nhà hay ai còn chứa sách phải đem đi đốt hoặc có thể bị trừng phạt tội “ngoan cố„ không chấp hành chính sách nhà nước.

    Gia đình tôi không ngoại lệ.

    Nhà chồng với chỉ cụ bố chồng và đấng lang quân. Sau năm 1975, anh khăn gói vào tù cải tạo không thời hạn. Cụ bố chồng là một nhà nho uyên thâm, giỏi tử vi, bói toán và bốc thuốc nên riêng khâu này nhà đã có cả một tủ sách, la liệt cả trên bàn, đầu giường cụ nằm. Còn anh xã là con mọt sách, mê sách hơn...mê vợ nên trong nhà, kệ sách, tủ sách chiếm vị trí nhiều hơn mọi thứ khác.

    Trước chính sách phải đốt sách, tôi và cụ Đạt, bố chồng tôi phải chấp hành. Nhưng cụ tiếc những sách quí, đau lòng, cụ nói với tôi:

-        Không thể đốt tất cả được, mình phải chọn, sách nào đụng chạm đến chính trị mới đốt thôi. Còn sách thuốc, văn học không đồi trụy cứ giữ lại.

   Thế là tôi và cụ suốt ngày đêm cả tháng trời lôi ra từng cuốn kiểm duyệt.

   Hồi đó, tôi vốn không thích đọc sách mà phải kiểm sách dù chỉ đọc sơ qua từng cuốn để loại bỏ, lúc bấy giờ tôi mới tìm thấy cái hay của từng nội dung cuốn sách.

   Rồi suốt thời gian dài cô đơn lẫn cô độc, anh xã không có nhà, tôi luẩn quẩn chỉ mỗi cụ bố chồng nghiêm khắc, không biết tìm niềm vui ở đâu, nói chuyện tâm sự với ai, tôi mới lôi từng cuốn sách mà khi kiểm tôi thấy hay ra đọc rồi dần dần suốt thời gian dài 6 năm còn kẹt ở Việt Nam, tôi đọc hết mọi tủ sách còn sót lại trong nhà, đọc cả binh thư yếu lược của Đức Trần Hưng Đạo, sách nho của cụ Đạt, thậm chí cả sách bói toán tử vi nữa...(do vậy, tôi biết coi tướng, coi bói chút chút đó)

   Khám phá, học hỏi những cái hay của sách, cả những sách lược, mưu kế trong sách cho tôi nhiều kiến thức đối phó với cuộc sống đầy gian trá lọc lừa lúc bấy giờ, tôi bỗng thích thú mê đọc sách, cuốn nào giá trị như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Giai Thoại Làng Nho...v.v...tôi đọc đi đọc lại có khi cả 7 lần luôn.

     Và dường như với thời gian, văn chương như giòng suối ngọt ngào, dịu dàng thấm dần vào tâm trí tôi làm tâm hồn tôi ướt át, thêm hoàn cảnh não lòng (cuộc đời tôi là những trang tiểu thuyết đẫm lệ, tôi từng xém...tự tử đó nha, tôi sẽ tâm sự với bạn đọc qua truyện dài “Trả Nợ Cho Đời„ mà tôi từng viết dở dang) tôi trút niềm đau qua những trang nhật ký giải tỏa tâm sự riêng như nói chuyện với chính mình, không than thở với bất cứ ai. Rồi tôi học cả cách làm thơ, xuất phát từ cảm xúc chân thành thương nhớ anh xã đang cải tạo, tôi gói ghém nỗi lòng gởi vào cho anh (những bài thơ may anh còn giữ và đem qua Thụy Sĩ cho tôi):

Gởi lá thư thăm.

 Em.

Gởi theo lòng thương nhớ.

Mỗi độ thư đi.

Là mỗi chút ân tình.

Em xin gởi, đến anh yêu dấu.

Anh Lễ hỡi.

Anh nơi đó. Em đây. Xa cách.

Em gặp anh trong giấc mộng chập chờn.

Em mơ gì?

Anh được biết chăng?

Em mơ thấy,

Nào anh là xuất sắc.

Được ban khen trong những lúc bình bầu.

Anh tiên tiến, tiếp thu nhanh chóng nhất.

Tiến bộ rồi, anh xum họp cùng em.

Em vui lắm, luôn mơ là như thế.

Anh làm sao, cho khỏi phụ lòng em.

Còn em?!

Em nơi đây. Nhớ anh.

Nên cất tình em,

Và dấu tình yêu.

Vào trong lòng em.

Gói ghém tình thương.

Bót chắt niềm tin.

Gởi đến cho anh.

Hạnh phúc ngày mai.

Có chim làm nhạc.

Em đợi.

 Anh về.

Em mới hết cô đơn.

Hoặc:

Anh và em.

Đang ở hai đầu tổ quốc. (em Sài Gòn, anh Lào Cai)

Đường thật xa, nhưng lòng dịu vợi, khôn nguôi.

Nhớ thương nhau.

Như bóng khắc lấy hình.

Đường xa lắm.

Thì tình ta.

Gởi đi theo gió.

Hương gió thoảng.

Gợi hồn ta.

 Nỗi nhớ.

Nhớ rồi thương.

Man mác cõi lòng nhau.

Em nơi đây.

Nhắn gió.

Nhủ trăng rằng.

Dù ngăn cách.

Ngàn trùng.

Em vẫn đợi !

   Nhưng nói cho rõ ra tôi thực sự cầm bút và thôi thúc cầm bút do một lần, vài tháng sau năm 1975, bố chồng tôi liên lạc được với anh em, bà con họ hàng ngoài Bắc. Cụ Đạt có hai người em trai mắc kẹt ngoài đó. Các cụ vốn cũng là nhà nho uyên thâm, văn chương lai láng. Khi viết thư vào thăm anh, cụ Nhì (em trai kế của cụ Đạt) kể lể mọi nỗi oan tình, cuộc sống gia đình miền Bắc, không bằng văn xuôi mà viết văn vần. Người cháu, con cụ thứ ba, viết thư vào cho bác cũng bằng thơ. Thường những bức thư đến nhà, cụ Đạt đều đưa tôi đọc, nhưng cụ lại phán một câu:

-Ý tứ người ta, con đọc không hiểu nổi đâu!

   Câu phán nghe dễ giận. Tinh thần dân tộc (miền Nam) nổi dậy. Há dân Nam dốt đến độ vậy sao ?! Ức mình, tôi len lén ghi địa chỉ hai người ngoài Bắc, rồi âm thầm lục cuốn dạy làm thơ ra học. Có chút tự tin, tôi viết thư trả lời hai người đó, không cho cụ Đạt biết, cũng kể chuyện miền Nam, cuộc sống của cụ Đạt và anh xã từ ngày bỏ quê di cư, và cũng viết bằng văn vần. Bài thơ lục bát dài thòon, tiếc thất lạc không còn nữa.

   Sau lần đó, họ thường xuyên liên lạc với tôi hay bàn về văn chương và khi có bài thơ nào mới sáng tác cũng gởi vào cho tôi và ngược lại.

  Tôi vô tình chìm đắm vào văn chương, thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản quên đi bao muộn phiền của cuộc sống và tôi bị cuốn hút vào đó.

   Rồi trước thời cuộc với bao điều đổi thay, cứ thôi thúc tôi muốn kể ra, nói ra những điều lạ lùng quái dị không thể tưởng tượng nỗi xảy ra trên cõi đời này mà chính tôi vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân…Nhưng tiếc là thời đó, để được yên thân «Có mắt phải như mù, có tai như điếc, có miệng như câm» (châm ngôn mà cụ Đạt và bà con cụ ngoài Bắc luôn dặn dò tôi), chỉ còn viết là thượng sách để trút bao uẩn khúc trong lòng không chỉ để giải tỏa nỗi khổ niềm đau cho chính mình mà đó còn là tiếng réo gọi tận đáy lòng bật ra dù âm thầm viết chỉ cho mình đọc, hoặc cất đi đợi thời.

   Truyện dài « Trả Nợ Cho Đời » (chưa hoàn thành. Tác phẩm này phản ánh thực trạng cuộc sống đụng chạm nhiều về chính sách nhà nước lúc đó nên tôi đành tạm ngưng) chuyển qua viết « Tuổi Hồng Con Gái »

 

truyện dài viết vào năm 1980 đã được in và phát hành tại hải ngoại năm 2012, tôi viết ra thời đó nội dung giải sầu thôi, mục đích tìm tiếng cười niềm vui cho mình. Tôi miệt mài làm bạn với các nhân vật trong truyện, đôi khi « chơi » với họ đến một giờ sáng. Bố chồng tôi hoàn toàn không biết gì về việc tôi viết lách, thấy tôi cứ hí hoáy viết hoài và cười khúc khích một mình, cụ tưởng tôi điên, hỏi:

-        Con viết gì mà bố thấy con hí hoáy suốt ngày đêm?

   Tôi trả lời:

-        Con viết văn, bố ạ.

 Cụ trố mắt ngạc nhiên:

-        Con mà viết văn à ? Rồi cụ tặc lưỡi:

-         Chậc…chậc…chậc..văn chương khó lắm con ạ. « Văn dĩ phải tải đạo », viết phải có hậu, có khẩu khí thì tương lai về sau mới khá.Ý tưởng không hay nó vận vào người, nguy hiểm lắm con ạ.

  Cụ dặn đi dặn lại, rồi bàn với tôi về văn chương, kể những câu chuyện của Nguyễn Hữu Chỉnh làm thơ tả chiếc pháo: « Kêu lắm lại càng tan xác lắm » để rồi cuối đời do ông có tài nhưng hay ngông nghênh kêu ngạo, ông bị ghét, bị gán tội rồi bị tử hình bốn ngựa phanh thây tan xác như chiếc pháo. Còn Nguyễn Hữu Cầu vịnh con rệp: «Ngọa tắc tứ phương an trẩm tịch. Khởi nhi thiên hạ tước bì phu» (trong Giai Thoại Làng Nho) nghĩa là (nằm thì bốn phương được yên gối chiếu. Trở dậy thì ai nấy sướt thịt da). Con rệp ban ngày thường ngủ, về đêm mới dậy ra quấy phá, cắn người đã ứng vào cuộc đời Nguyễn Hữu Cầu nên sau ông làm giặc, thủ lãnh một nhóm cướp đợi đêm đi quấy phá đất nước, xóm làng bị triều đình cử Phạm Đình Trọng bạn học cũ ra tiêu diệt.

 

   Ngày đầu tôi tập viết văn cũng khổ sở không kém. Biết viết làm sao. Mở đầu thế nào. Cắn bút suy nghĩ mãi, chữ vẫn không ra, tôi sực nhớ có lần đọc cuốn « Gánh Hàng Hoa » tiểu thuyết của Khái Hưng và Nhất Linh trong Tự Lực Văn Đoàn có đoạn bàn về cách viết văn: « Trông thế nào, nghĩ thế nào, cứ thế viết ra. Các nhà văn hào cũng làm thế thôi. Họ hơn ta là vì họ trông đúng, nghĩ đúng và biết đem vật khác để so sánh với cái ta nhìn thấy ». Thế là tôi thực tập, nhìn ngay cụ Đạt, tả: « Bố chồng tôi là một nhà nho uyên thâm. Quanh năm suốt tháng…ch..à..à..n..g…».

Tôi khựng lại, nhíu mày. Với một cụ già 75 tuổi như bố chồng tôi mà ngôi thứ ba dùng chữ « chàng » nghe sao sao ấy, không lọt tai tí nào. Tôi vội lục cuốn « Đoạn Tuyệt » của văn hào Nhất Linh có nhân vật bà Phán già, mẹ chồng cô Loan xem ông Nhất Linh sử dụng ra sao. Thấy ông dùng ngôi thứ ba bằng chữ « bà » thay cho « nàng » thì tôi sẽ dùng chữ « cụ » dành cho cụ Đạt vậy. Tôi tiếp tục: « Quanh năm suốt tháng…cụ chỉ mặc độc nhất một kiểu áo bà ba trắng, quần trắng. Khi ra ngoài thì khoác thêm khăn đóng áo dài đen. Râu tóc cụ bạc phơ, râu dài đến bụng, vóc dáng quấc thước thanh cao, da dẽ cụ hồng hào trông cụ như một tiên ông ». Chà, tôi hài lòng với việc tôi « trông đúng » và còn biết so sánh…đúng nữa, thế là từ đó, ngày đêm tôi miệt mài cầm bút hết viết nhật ký đến làm thơ và sau cùng tập viết tiểu thuyết nữa (đời tôi là những trang tiểu thuyết mà). Khi hạ bút xuống những trang giấy cũng là cách tôi…hạ những nỗi uẩn khúc trong lòng ra khỏi tâm trí, quên hết bao nỗi chán chường, buồn phiền của cuộc sống rồi say sưa viết như chưa từng được viết. Nhưng tôi không viết truyện ngắn vì chưa có khái niệm gì về một truyện ngắn mà là viết truyện dài mà cũng chưa hẳn là dài (chỉ là trung thiên tiểu thuyết) bắt chước theo các tiểu thuyết trong Tự Lực Văn Đoàn.

   Ngày vượt biên, tôi « ẵm » theo hai…đứa con tinh thần tức bản thảo hai truyện Trả Nợ Cho Đời  và Tuổi Hồng Con Gái. Vì thời đó không có máy photo, tôi phải viết tay chép lại trong các cuốn tập vở. Bản chính để lại nhà phòng khi chuyến vượt biên không thành có vứt bản sao chép, thì vẫn còn bản cũ.

   Ra đi, tôi không có một đồng xu teng nào để mang theo, tài sản trân quí chỉ là hai tập truyện, tôi luôn ôm trong lòng nâng niu như mẹ ôm con. Gặp hải tặc, chúng tưởng tôi giấu nhiều vàng bạc, đô la trong đó, chúng lùng xục không thấy gì liền ném trả lại.

    Cũng may chuyến đi đó, chỉ một lần được trót lọt mở ra cho tôi một chân trời mới, cuộc đời mới, rồi tôi tập tễnh bước vào thế giới văn chương cho đến bây giờ.

   Ngày tôi đặt chân đến Thụy Sĩ năm 1982, sau khi ổn định cuộc sống, trong nỗi buồn vừa cô đơn lẫn cô độc, vì đấng lang quân còn đang miệt mài theo đuổi “Đại Học Máu“ (Từ của nhà văn Hà Thúc Sinh ví các trại lao tù cộng sản Việt Nam thời đó) tôi tìm vui trong sách báo.

   Một ngày, tình cờ thấy tờ báo Phụ Nữ Diễn Đàn khi đến chơi nhà một người bạn, tôi âm thầm lấy giấy bút ghi địa chỉ tòa soạn tận mãi bên Mỹ rồi về nhà gởi tập “Tuổi Hồng Con Gái„ Gởi đi xong, tôi nhận thư tòa soạn trả lời, báo hải ngoại một tháng phát hành một lần, cần truyện ngắn hơn truyện dài.

   Truyện ngắn ư, hơi lạ lẫm với tôi, mới cầm bút mà, tôi không rõ viết thế nào, sắp xếp cốt truyện ra sao cho đủ ngắn theo đúng yêu cầu, thế là tôi mon men nghiên cứu các truyện ngắn đã đăng trong sách, báo.

   Giai đoạn từ năm 1983 trở đi, sau khi ổn định đời sống, sinh hoạt báo chí hải ngoại bắt đầu rộn ràng, nhiều cây bút mới nam cũng như nữ, tuy mới xuất hiện đã gây tiếng vang xôn xao khắp nơi. Tôi đặt mua hết các sách họ phát hành để học cái hay, cái mới từ họ.

   Tục ngữ Việt có câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim„ hoặc “Có chí thì nên“, sau một thời gian dài chịu thương chịu khó tìm tòi học hỏi, tôi viết được vài bài thử gởi đi. Cốt truyện thì, sau sáu năm dưới chế độ cộng sản, vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân, rồi thêm một thân một mình bôn ba lưu lạc xứ người, đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ cùng cực trong cuộc sống, thiếu gì điều để viết, tôi tha hồ trải lòng mình như một cách giải tỏa nỗi niềm để quên đi những tháng ngày cô đơn buồn tẻ nơi xứ lạ.

   Lần đầu tiên, bài gởi đi được đăng là mừng lắm, lắm rồi, còn có thêm nhuận bút, điều không mơ, không đòi mà được, cứ một trang A4 là 20 US đô la. Một truyện ngắn thường 3 hay 4 đôi khi 5 trang. Thừa thắng xông lên, tôi miệt mài và thích thú chuyện cầm bút. Ngoài thời gian cho hãng xưỡng, lo cơm nước bản thân, thời gian còn lại, tôi dành cho đọc và viết lách. Không phải vì nhuận bút tôi mới viết, tôi gởi bài đến cả những báo không trả nhuận bút do các bạn văn giới thiệu như Lửa Việt tại Canada, Việt Nam Tự Do và Đẹp tại Hoa Kỳ. Tin Văn tại Paris (Pháp). Thời gian sau đó, một vài truyện ngắn của tôi được đài phát thanh Hoa Kỳ lẫn cả nước Úc xa xôi, nơi mà tôi không liên hệ gì về báo chí chọn đọc cho mọi người nghe, còn niềm vui và an ủi nào hơn thế nữa cho tôi?!

   Cuộc sống cứ thế tiếp diễn, cho đến một ngày khoảng năm 1990, nhân duyên mới đến với tôi, cũng tình cờ đọc được tờ báo Viên Giác tại nhà một người bạn. Đó là tờ báo đạo xuất bản tại Đức do Thầy Thích Như Điển thành lập và làm chủ nhiệm. Đọc qua, tôi thấy nội dung dễ thương, và là tại Âu Châu nơi mình định cư, tôi mon men làm quen với...Hòa Thượng Thích Như Điển lúc đó mới đang là Đại Đức trong dịp lễ kỷ niệm 10 năm tị nạn do chính phủ Thụy Sĩ tổ chức. Tôi đến chào Thầy với một chút tịnh tài cúng dường Tam Bảo đặt trong bao thư ghi rõ địa chỉ của tôi, thế là từ đó tôi nhận được báo Viên Giác. Đọc không chưa đủ, tôi gởi bài và được đăng.

   Cái duyên Viên Giác bắt đầu từ đó và càng gắn bó hơn cho đến ngày tôi được trúng giải nhất và hai giải khuyến khích “Viết Về Âu Châu“ năm 2002 do chính Hòa Thượng và chùa Viên Giác tổ chức.

   Hôm lãnh giải xong, Thầy Thích Tịnh Phước tại Thụy Điển đến nói với nhà tôi (đấng lang quân của tôi thời gian này đã xum họp cùng tôi sau hơn 13 năm xa cách): “Chị nhà là Phật tử, lại có khiếu viết văn, anh về nói chị nghiên cứu kinh điển và giáo lý Phật Đà để chuyển tải giáo lý nhà Phật. Phật tử mà viết theo cái hiểu của Phật tử thì dễ đi vào lòng người hơn“. Nghe nhắn lại, tôi nghe để mà nghe chứ giáo lý của Phật tôi vẫn biết mênh mông, cao siêu, đọc và học đến bao nhiêu kiếp mới hết, với lại hồi đó đời sống và tâm hồn tôi còn đầy trần tục, mang tiếng là con nhà Phật vì cha mẹ theo đạo Phật nhưng trong tôi, ngoài câu niệm Phật thông thường « Nam Mô A Di Đà Phật », tôi hoàn toàn không biết gì thêm, làm sao tôi dám hứa hẹn hay nhận lời. Tùy duyên thôi. Nhưng lời nhắn nhủ ấy, tôi vẫn ghi sâu trong lòng và xem đó như sự gởi gắm của Thầy Tịnh Phước đến tôi. Rồi cũng nhờ thông tin từ báo Viên Giác, một nhân duyên hy hữu, tôi ghi tên tham dự các khóa giáo lý Âu Châu do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức. Biết tôi cầm bút viết được văn, lần nào Hòa Thượng Thích Như Điển gặp tôi cũng nói: « Chị về viết cho bài tường thuật khóa tu nhé ». Tôi « dạ » nho nhỏ, nhưng không dám hứa gì. Rồi thì khi về đến nhà, phần quí kính Hòa Thượng, phần nghĩ Hòa Thượng tin tưởng gởi gắm mình mà nói như thế, nên tôi cố gắng ngồi viết.

    Khóa Tu Học Âu Châu, viết riết, quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu. Ngày ba thời: Ba thời học giáo lý, ba thời ăn, ba thời tụng kinh, liệt kê số lượng tham dự, nơi tổ chức,…còn gì để viết nữa đâu, bấy giờ tôi mới sực nhớ đến lời nhắn nhủ của Thầy Thích Tịnh Phước, rồi chợt nghĩ, sao không kể lại, viết ra những giáo lý theo cái hiểu của mình do quí Thầy giảng để chuyển tải đến người khác như lời Thầy Tịnh Phước gởi gắm ngày nào, được chút nào hay chút nấy. Mà muốn viết thì phải lắng nghe, lắng nghe một cách chăm chú, và ghi chép nữa. Con tằm ăn dâu mới nhả tơ được chứ. Sau này tôi mua được máy thâu, thâu xong về nhà nghe lại lần hai, lượm lặt ghi chép những ý chính rồi viết thành bài. Cứ như thế với thời gian, giáo lý nhà Phật thâm nhập vào tôi lúc nào không hay, để từ đó, song song viết chuyện đời, tôi viết thêm chuyện đạo.

    Vẫn chưa dừng tại đây. Một nhân duyên mới lại đến với tôi.

   Cuối mỗi khóa Tu Học Âu Châu, thường có chương trình văn nghệ. Cứ hát, ngâm thơ mãi, lâu lâu mới có một vài màn vũ, không có kịch, sẵn vốn có khiếu về văn nghệ, biết đóng và viết kịch từ hồi 11 tuổi, tôi nãy ra soạn kịch dựa những giáo lý đã học để đem đạo vào đời và ngược lại. Tôi nghĩ dùng văn nghệ càng dễ đi vào lòng người hơn.

   Kính thưa Bạn đọc.

   Tôi viết văn, cũng như viết kịch, như kể ở trên, gom góp từ những trải nghiệm đau thương lẫn những niềm vui trong cuộc sống không do đào tạo từ trường lớp nào dù trước 1975, vì hoàn cảnh tôi phải theo Đại Học Văn Khoa để…học đại môn tôi vốn không thích. Văn Khoa có nhiều ban, tôi không chọn ban Văn Chương (vốn ghét mà) mà là Sử Địa nhưng đó cũng là duyên lành giúp tôi có chút kiến thức về những biến chuyển lịch sử, những nhân vật lừng danh trên thế giới cũng như tại nước nhà, mà khi viết văn hay kịch những yếu tố đó cũng rất cần thiết.

   Cho đến bây giờ, nhìn lại quá trình qua, trải nghiệm từ cuộc sống, tôi nhận thấy mọi sự trên đời đều do nhân duyên từ cái này sinh ra cái kia như những móc xích nối từng giai đoạn, sự kiện vào nhau, và để có một kết quả như mong muốn, cần phải có nghị lực, ý chí, chịu khó gắn kết từng móc xích sao cho thật khéo léo mới thành dây chuyền được. Tôi cũng cám ơn nghịch cảnh và những điều bất như ý mà Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nói: « Những điều bất như ý đôi khi lại là những điều may mắn » sẽ an ủi giúp chúng ta chuyển nghịch thành thuận.

    Và đối với tôi bây giờ, văn chương hay văn nghệ chỉ là niềm vui tinh thần như chăm chút một vườn hoa đầy sắc thắm tô điểm cho cuộc sống tươi mát hơn. Người « tạo vườn » như tôi, cũng chỉ với mục đích trân trọng kính mời Quí vị ghé thăm, ngắm từng đóa hoa, cụm hoa trỗ sắc để thấy lòng thư thái và cả những cảm giác giật mình khi nhìn thấy một con sâu, nếu có. Với đủ mùi vị như thế, há cuộc đời này cũng thú vị lắm chứ?!

   Tôi xin kết thúc bài viết tại đây. Kính chào Bạn đọc. Thân mến chúc Quí vị những ngày vui.

Trần Thị Nhật Hưng

2020

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5222)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 12037)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 10132)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7924)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3916)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6667)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 89195)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6760)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4965)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4525)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]