Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gánh Hàng Rong Của Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm)

12/07/202017:19(Xem: 8548)
Gánh Hàng Rong Của Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm)
 ganh hang rong

Gánh Hàng Rong Của Mẹ
Truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm
Diễn đọc: Phật tử Tường Dinh


 

Mẹ từ giã cõi đời vào những ngày cuối năm biến không khí đón tết vui tươi giờ đây càng thêm lặng lẽ. Nhìn Cha già ngồi niệm Phật, cúng lễ phẩm mỗi ngày 3 lần cho Mẹ, trông ra phía trước sân những chậu vạn thọ hoa đã nở tròn, khiến tôi càng thấy buồn và nhớ Mẹ nhiều hơn.

Tôi ngồi xem mấy món đồ Mẹ để lại được đựng trong chiếc hộp gỗ đã bạc màu, lòng tôi cảm xúc dâng trào khi nhìn thấy xâu chuỗi bằng hạt bồ đề tự tay tôi làm và những lá thư tôi viết gởi về thăm Mẹ cũng như những bài thơ võ vẽ tập làm từ tuổi ấu thơ. Những bài thơ từ khi tôi viết đến khi Mẹ qua đời đã gần hai mươi năm, tưởng chừng đã hư mất thuở nào nhưng được Mẹ gói trong mấy lớp bao ni lông thì giờ đây cũng đã ố vàng. Đây là rất ít số bài thơ còn sót lại trong thời tuổi thơ của tôi.

Cảm xúc nhớ Mẹ dâng trào theo từng câu chữ, những kỷ niệm thuở ấu thơ bên Mẹ hiền đầm ấm, hồn nhiên, hạnh phúc biết bao. Đặc biệt, “Đôi Gánh trên vai Mẹ” là một trong những hình ảnh thiêng liêng của cuộc đời và là nguồn động lực vô cùng lớn lao cho tôi theo từng thời gian của dòng đời sanh diệt và ngay lúc ấy. Tuổi thơ hồn nhiên đang cuộn chảy trong tôi:

Mẹ ơi, mang đôi dép này vào đi cho đỡ nóng chân!

Không mang được đâu Con,

Nhưng Mẹ mang đi, Mẹ!

Ờ, ờ để Mẹ mang!


An năn nỉ Mẹ mang đôi dép mà cậu đã dành tiền lì xì Tết vừa qua. Nhóc năn nỉ Chị mua giùm làm quà đầu năm cho Mẹ.

Trong những tháng năm đầu tiên, gia đình từ miền Trung vào Nam sinh sống, Cha Mẹ từng bước gầy dựng lại sự nghiệp với hai bàn tay trắng. Cảnh đời, nghiệp vận của quê hương cùng với con người làm cho người ta thắt quặng nỗi lòng khi nghĩ về những chuỗi ngày đầy đau thương và nước mắt đó. Bao nhiêu tang thương của dòng họ, quê hương, những đồng tiền dành dụm từ quê đem vào chỉ đủ xoay sở trong thời gian ngắn. Cha tôi bươn chải khắp nơi, làm đủ thứ công việc nặng nhọc và làm việc quá nhiều đến độ ngã bệnh nặng liên tục trong mấy năm liền.

Lúc ấy, một mình Mẹ phải lo toan vất vả trăm điều, những chiếc áo dài Mẹ thích từ thời con gái cũng đành đổi gạo nuôi con. Giữa miền đất lạ, Mẹ dùng sức lực, đôi vai quang gánh tảo tần nuôi dạy đàn con dại. Có khi bình minh chưa ló dạng, con còn đang trong giấc ngủ say mèm, Mẹ đã thức dậy chuẩn bị quảy gánh ra đi cùng với tiếng rao giờ đây nhớ lại quặn thắt cả nỗi lòng:

Mờ sáng tinh sương

Mẹ quảy gánh cùng nắng sương gió tuyết

Đôi quang gánh tựa hai vầng nhật nguyệt

Mỗi bước chân như chan chứa ân tình

Cây cối lặng mình trong thổn thức

Mắt con từng giọt lệ rưng rưng

 

Nhà tôi cách chợ và trường học cũng khoảng gần 3 cây số, phải đi qua con đường toàn là đất cát mịn, mùa nắng thì cát lún đến mắt cá chân, mang dép thì cát lọt vào chân, khó đi lắm. Mùa mưa thì nước đổ về, có khi ngập đến nửa người, làm cho những người dân qua đây thật khổ sở.

Thời thơ ấu, mỗi lần Mẹ quảy gánh ra khỏi nhà, bao nhiều sầu lo như đang đè nặng tim con, nỗi lo cảm giác như theo từng bước chân và đôi vai của Mẹ. Mỗi lần chiều về, ánh nắng đã ngã sau lưng nhà là con bắt đầu trông đợi Mẹ. Trông Mẹ về được đến nhà bình an.

Buổi sáng có khi gánh bánh bèo, có khi bánh đúc, buổi trưa xế chiều đôi khi là những gánh rau từ vườn. Qua từng con đường nhỏ, qua từng thôn xóm, với đôi gánh trên vai như gánh tất cả những nhọc nhằn nuôi con khôn lớn!

Trong đôi mắt trẻ thơ của tôi lúc đó, con đường làng không có gì là thân thương cả, vì Mẹ tôi quá khổ nhọc mỗi ngày qua con đường này. Có lần học câu chuyện Tấm Cám, có Ông Bụt hiện ra, cô giáo hỏi học trò mấy em ước điều gì khi gặp Ông Bụt. Bạn cùng lớp mỗi đứa một kiểu, còn tôi nói ngay không cần suy nghĩ: “Con xin Ông Bụt làm cho con đường được đẹp để Mẹ con khỏi bị nóng chân, ngập nước”.

Hạt mưa ơi xin dừng cơn đổ xuống

Để Mẹ hiền đỡ gánh nặng chiều nay

Xin gió ngừng cho bụi đất khỏi bay

Để mắt Mẹ khỏi mờ vì cát trắng

Mây ơi mây đến che giùm cơn nắng

Vì Mẹ tôi trĩu nặng gánh trưa hè.

 

Những ngày hè nóng, cát ở con đường càng nóng dữ dội, đi chân không thật khó chịu nỗi, lúc nhỏ mỗi khi đi qua con đường này, ai cũng cố gắng nhanh chân chạy từng đoạn, tìm bụi cỏ hay vật gì rồi đứng tạm lên cho chân đỡ nóng. Ấy thế, Mẹ vẫn phải chịu từng bước chân chân trong cát dưới trời nóng. Có hôm, Mẹ về đến nhà, mồ hôi ướt đẫm, gương mặt mệt nhoài. Tối đến, mùa hè thì bàn chân bị bong từng vết bỏng của nắng cát, Mẹ chịu cơn đau bằng cách thoa mấy lá bù ngót ở sau vườn.

Mùa mưa đến với nỗi khổ khác, nước từ thượng nguồn đổ về, con đường giờ đây như một đồng nước mênh mông. Mẹ thấp người, có hôm phải ráng gồng gánh đi trong mưa, có hôm Mẹ bị nước cuốn trôi trên đồng ruộng, gắng gượng lắm mới được an toàn về đến nhà. Đôi bàn chân Mẹ bị nước ăn lở đỏ, Mẹ đành bấm bụng xoa những vết cổ trầu trên chân trông thật đau lòng. Đôi vai Mẹ gánh đã chai đến nỗi như một vết chàm ngay đòn gánh. Lúc nhỏ nhiều khi ngồi nhìn Mẹ thoa dầu, tự đánh thình thịch vào bả vai vào chân cho đỡ mỏi mà đến giờ đây tôi cũng không cầm được nước mắt.

Chứng kiến Mẹ cơ cực, nhọc nhằn nhưng con Mẹ theo tiếng gọi tâm linh vào chùa xuất gia tu học. Có lần từ chùa về thăm nhà, mặt trời chiều, ra đứng trước sân nhà đợi mẹ cũng giống như lúc còn ở nhà ngày nào. Tôi ra đứng đợi Mẹ, nhìn dáng Mẹ từ xa, ánh nắng chiều cùng với cát bụi khi về đến nhà, thật cảm xúc, thắt chặt nỗi lòng:

Con lớn lên trong cảnh cơ hàn

Bữa cơm nghèo chỉ sắn khoai lót dạ

Thương mẹ già nắng mưa tầm tả

Gánh chợ chiều ướt vã mồ hôi

Có những lúc nắm xôi cái bánh

Vỗ về con chăm chỉ học hành

Đời đói lạnh mẹ điềm nhiên vững dạ

Mặc phong ba sóng cả cuộc đời

 

Nhiều lúc tôi cảm giác rằng, trên con đường làng, hay những ngõ hẻm của vùng này không chỗ nào là không có dấu chân của mẹ, không chỗ nào là không có những giọt mồ hôi của Mẹ tuôn rơi với đôi gánh trên vai. Có lần, Mẹ gánh hàng đi sớm, bị tai nạn, sức khỏe kém nhiều, nhưng vì cuộc sống gia đình, vì con cái mà ráng vực dậy tiếp tục dùng nghị lực và tình thương để phấn đấu nuôi con. Cũng may sau mấy năm sức khỏe Cha tôi dần bình phục, cuộc sống gia đình tạm ổn định, cả gia đình năn nỉ Mẹ nghỉ ngơi. Tuy Mẹ giờ đây không gánh bán kiếm sống như ngày nào, nhưng thỉnh thoảng Mẹ đem gánh ra lau, như nhắc nhở con cháu những tháng ngày cơ cực mà cố gắng vươn lên để sống tốt với đời.

 

Đôi Gánh của Mẹ đã ăn sâu vào tâm khảm, là hình ảnh thiêng liêng trong tôi. Đôi gánh ấy không phải chỉ đưa anh chị em chúng tôi vào đời mà còn là sự kết nối tình thương mầu nhiệm trong ý thức gợi nhớ nguồn cội Tổ Tiên. Mỗi năm ngày Mồng ba Tết, theo tục lệ đưa tiễn Ông Bà, Mẹ năm nào cũng vậy, đã chuẩn bị nhiều thứ thức ăn, gạo muối, trầu cau… vào đôi gánh. Chiều ngày mồng ba sau khi cúng Ông Bà xong, Mẹ gánh đôi gánh đã chuẩn bị sẵn đưa tiễn Ông Bà một đoạn và tiếp sau đó anh chị em trong nhà, chia nhau gánh đưa một đoạn vài trăm mét  rồi mới vô nhà. Lúc còn nhỏ, thấy Mẹ chuẩn bị làm như thế trong nhà ai cũng cười nói dí dỏm chọc Mẹ đủ điều. Nhưng sau khi lớn lên, có lần Mẹ vừa gánh vừa khóc, ký ức của Mẹ đang cuộn chảy về thuở xa xưa nơi có lũy tre làng, có nhà Thờ Tổ Tiên, có hình bóng của Ông Bà cùng những ngày thơ ấu. Lần đầu tiên trong đời khi con chợt nhận ra trên đôi Gánh sao lại chứa chan nhiều ân tình như thế?

Vào Chùa, mùa báo Hiếu đầu tiên, khi tụng kinh Báo Ân Cha Mẹ, Phật dạy "Giả như có người vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi vẫn không thể báo đáp ân sâu của cha mẹ. Giả như có ai, gặp lúc đói khát, hủy thân thể, cung phụng cha mẹ, cũng không báo được ân đức cha mẹ. Trăm kiếp ngàn đời thích tròng con mắt, cắt đến tim gan, dao sắt xuất nhập khắp cả châu thân, cũng không trả nỗi ân đức cha mẹ. Và dẫu cuối cùng, vì cha vì mẹ, lấy thân làm đèn, hiến cúng Như Lai, cũng không báo được hồng ân cha mẹ” Lúc ấy, hình ảnh đôi gánh của Mẹ ngày nào lại hiện lên. Lời kinh cứ vang vọng trong tâm tư, tôi khóc thật nhiều, càng khóc hình ảnh Mẹ càng hiện rõ trong tôi!

Đôi gánh của Mẹ giờ đây cùng con vào chùa, lần đầu tiên khi nhìn thấy Sư Phụ chở trên chiếc xe đạp đủ thứ rau quả, gạo, nước tương về nuôi mấy chú Tiểu. Lòng con cảm thấy tuy không phải đôi gánh của Mẹ ở buổi chợ chiều nơi miền quê, mà giờ đây Thầy mình đang gánh sứ mệnh của Phật pháp, trong đó có cả những bữa cơm hằng ngày và những lời pháp từ Thầy.

Lúc chùa còn nghèo, khó khăn không có tiền mua máy bơm nước. Vườn cây thanh long, tiêu đều phải gánh để tưới. Và mỗi ngày gánh nước tôi cứ hình dung đang cùng với Mẹ đi trong những lúc bán hàng rong, tôi nghêu ngao vài ba câu kinh trong từng bước chân của tuổi thơ như được cùng Mẹ dưới mái chùa quê nghèo thanh đạm.

Từng bước trưởng thành, từ khi ở chùa đến khi ra Hải Ngoại. Hình ảnh Đôi gánh chợ chiều của Mẹ giờ đây càng hiển hiện trong con. Các bậc Ân Sư đã gánh trên đôi vai biết bao trọng trách Phật pháp, đôi gánh ấy cân bằng giữa đời sống phạm hạnh và nhập thế độ sanh. Biết bao khó nhọc, áp lực, thị phi tương tranh nhân ngã đã nặng quằn trên đôi vai của những Bậc Thầy tôn kính.

Khi còn nhỏ, Mẹ dạy tập gánh cũng như tập làm người, phải kiên nhẫn, chịu khó. Lúc đầu cũng có chút khó khăn, nhưng rồi cũng thực hành được. Điều quan trọng là giữ cho gánh được thăng bằng, để đi về phía trước, không va chạm với những chướng ngại vật trên đường. Khi gánh rồi, càng cảm nhận được bao sự nhọc nhằn của Mẹ suốt bao năm qua. Cũng vậy khi từng bước gánh chút ít trách nhiệm với Đạo Pháp, mới thấy được ân đức của các bậc Ân Sư quá to lớn.  Khi gánh trên vai gánh nặng thì thương Mẹ Cha biết dường nào.  Khi gánh chút ít trách nhiệm trong Đạo Pháp càng tôn kính những bậc Thầy Tổ đến muôn phần!

Cuộc sống không bao giờ giống như ta mong muốn, những hoàn cảnh khó khăn và nghịch duyên thử thách là điều luôn có. Nhiều lúc, tôi cũng chán nản, mỏi mệt nhưng hình ảnh Mẹ với đôi vai gầy, gương mặt khắc khổ luôn là động lực để tôi cố gắng bước đi. Ở đời có ân tình nào quý trọng và thiêng liêng hơn ân tình của Cha của Mẹ. Dòng thời gian theo cuộc sống, con người cứ theo cuộc sống của chính mình, có khi những gánh nặng của Mẹ Cha trong suốt cả cuộc đời cơ cực thế mà con cái nào đâu hay biết! Thực tế xã hội đã cho thấy biết bao con cái thành tài đều nhờ bằng những khổ nhọc, đắng cay của Cha Mẹ. Có người đỗ đạt thành danh, có địa vị xã hội… đều có những gánh hàng rong của Mẹ, những đồng tiền đổ mồ hôi trong muôn ngàn công việc nặng nhọc của Cha. Tất cả những gì tốt đẹp của cuộc đời. Ở đời ai cũng từ Mẹ sanh ra từ Cha nuôi lớn, lễ nghĩa học hành được Thầy dạy dỗ… tất cả đều từ sự khổ nhọc ấy mà nên người. Đôi Gánh Hàng Rong như chứa đựng tất cả sự hy sinh, những nguồn yêu thương cao cả thiêng liêng, như một điểm tựa tâm linh huyền diệu và luôn vang vọng mãi trong lòng của tất cả những người con hiếu hạnh!


Tu Viện Từ Ân, Mùa Đông năm 2020

Thích Hạnh Phẩm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 5766)
Ngày tôi còn học Y Khoa, ở khu Sản khoa thời đó ở miền Nam Việt Nam chỉ cho phép làm “abortion therapeutique”, với chữ ký cuả 3 vị Thầy đồng ý phải bỏ thai nhi để cứu mạng sản phụ. Và đây là chuyện rắc rối mà tôi đã gặp phải sau 1975 Anh chị M., đối với tôi là một cặp vợ chồng có tư cách rất đáng qúy, tôi luôn xem hai người như anh chị ruột của mình. Anh M., một Phật tử thuần thành, lớn hơn tôi 10 tuổi, tốt nghiệp đại học bên Pháp, là một người sống nhiệt thành vì lý tưởng, lập gia đình trễ, từng giữ chức vụ khá lớn thời Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1980, khi mới ở tù cộng sản ra, tôi là người đưa chị M. đến nhà thương sanh con gái đầu lòng – cháu Phương Thanh (tên đã được thay đổi, không phải tên thật)
28/11/2012(Xem: 7190)
Nam Tuyền chém mèo (Nam Tuyền trảm miêu)[1]. 南泉斬猫 Bản tắc: Hòa thượng Nam Tuyền[2] nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói: -Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi. Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo. Tôi hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng. Nam Tuyền thấy thế mới bảo: -Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết.
23/11/2012(Xem: 3481)
Tôi đang loay hoay quét mạng nhện trên trần nhà, chuẩn bị một cuộc tổng vệ sinh nhà cửa để đón cái Tết cổ truyền, chào mừng năm mới theo lệnh của cha. Út Huy đi học về lúc ấy, mặt chằm quằm một đống, liệng chiếc cặp lên chiếc ghế salon... rồi ngồi phịch xuống kế bên, thở dài nghe não ruột. Tôi ngưng tay chổi ngó nó từ đầu tới chân. Nó lấm la lấm lét nhìn tôi, lúng búng: “Anh Ba... anh Ba...” Đưa mắt nhìn nghi ngại, tôi bắt gặp ngay chuyện không vui. Hơi lo, tôi làm bộ hỏi: "Thì tao là anh Ba đây, có gì là lạ đâu? Mày sao vậy? Sao mà... như bị mất hồn vậy?” Chừng như thằng nhóc chỉ chờ tôi hỏi vậy, nói ngay: “Lão thầy đánh em, anh Ba à!” Tay nó xoa lấy mông, nước mắt lưng tròng.
09/11/2012(Xem: 6261)
Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng. Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
01/11/2012(Xem: 14811)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
01/11/2012(Xem: 14192)
Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật"! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!
17/10/2012(Xem: 17572)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
10/10/2012(Xem: 11390)
Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẻ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.
21/09/2012(Xem: 4334)
Vừa rẽ vào đường hẻm nhỏ, chỉ một đoạn ngắn, chiếc xe Honda ngừng lại, tắt máy. - Đây rồi. Lữ khách ngồi sau xe bước xuống, lập lại lời người lái xe: - Đây rồi! Có phải đây là nơi chốn đã đến, đã biết đâu, mà sao xác nhận như đã từng!
21/09/2012(Xem: 12566)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]