Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cụ Già và Chiếc Radio Cũ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do PT Tường Dinh diễn đọc)

02/07/202004:39(Xem: 5398)
Cụ Già và Chiếc Radio Cũ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do PT Tường Dinh diễn đọc)

radio
Cụ Già và Chiếc Radio Cũ

Truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm
Diễn đọc: Phật tử Tường Dinh





 

- Chú An ơi, chú còn pin không cho tôi xin với?

- Ô, hết rồi Cụ ơi, con cũng không có tiền để mua pin mới! Thôi Cụ chịu khó nghỉ nghe tin tức vài hôm nha, có tiền con sẽ mua cho Cụ!

Ông Cụ mắt nhìn vào chiếc radio buồn buồn, cúi đầu xuống rồi lại ngước lên, trông thật tội!

-Thì cũng đành vậy thôi. Cám ơn Chú!

Cụ có chiếc radio đã cũ lắm rồi, khổ cỡ của nó bằng cuốn vở học trò, cái cần ăng ten đã sứt từ lâu, ông tự chế lại bằng cọng căm xe đạp khiến tiếng nói nghe khàn khàn, thỉnh thoảng ông phải đập đập vào tay nó mới có âm thanh; màu sơn bây giờ cũng phai gần hết, lốm đốm, thay vào đó, mồ hôi tay, nhiều chỗ dính chút xi măng, lấm tấm đất…và thời gian đã làm chiếc radio của ông trông thật tội!

Ngày nào cũng vậy, cứ hai lần sáng tối, ông nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách đất, đến giờ đài phát thanh thời sự là ông mở radio. Thời gian đầu, mấy Chú lo lắng, vì theo sự quy định của Sư Phụ thì tất cả những chú Tiểu mới vào chùa đều không được phép sử dụng bất cứ loại máy thu âm nào để chuyên tâm vào học kinh điển. Ông Cụ vì tuổi cao nên được phép làm điều ấy như một đặc cách.

Năm Ông vào chùa đã hơn 70 tuổi, nghe Ông kể lúc trẻ từng đi làm ăn buôn bán, sự nghiệp cũng khá, nhưng rồi quá nhiều biến cố sau năm 1975 nên chẳng còn gì. Tuy ông lớn tuổi nhưng ông vẫn còn minh mẫn và siêng năng. Lúc nhỏ, ông được học về Nho giáo nên phần nào cũng giữ được cung cách của một người sống biết đạo lý. Tuy ít nói nhưng ông hay quan tâm tới mấy chú Tiểu và thường hay đăm chiêu nghĩ ngợi. Nhiều khi mấy Tiểu pha trò, chọc Ông, Ông gắng gượng cười nhưng nụ cười của Ông ít khi nào được trọn vẹn. Trong lòng Ông luôn ẩn chứa những nỗi buồn mà ít khi chia sẻ cùng ai. Mấy tháng đầu tiên vào công quả, vì thấy Ông thường nghe tin tức nên mấy chú khuyên:

-  Cụ ơi, lớn tuổi rồi, để dành thời gian lo niệm Phật!

Ông Cụ nói “Mô Phật”, nhưng rồi cũng mở radio như thường lệ. Gần một năm sau, cho đến một hôm Ông bị bệnh, sau đó bệnh càng trầm trọng, số tiền làm thuê Ông để dành cũng đã xài gần hết vào tiền thuốc.

- Pin nè Cụ, Cô Sính cho Cụ nè!


Xung quanh chùa cũng toàn là Phật tử nhưng tất cả đều nghèo, cuộc sống cũng chỉ làm buổi sáng ăn buổi chiều. Cô Sính tốt bụng, tuy rất nghèo nhưng lúc nào cũng biết san sẻ cho mấy Chú.

Cụ nhìn Tiểu An, đôi mắt trông vui hẳn lên. Vội lắp pin vào máy và nhìn đồng hồ trông chừng để theo dõi tin tức. Đến khi đó mấy Chú mới biết rằng, mỗi ngày lý do ông theo dõi tin tức là vì trông tin về người con gái của Ông đã thất lạc. Theo lời Ông kể, trong lần di cư từ quê miền Bắc vào Nam, con gái của Ông lúc đó 12 tuổi đã bị thất lạc trên chuyến tàu lửa. Từ đó, ông vừa thương nhớ con và cũng giận chính mình. Bôn ba khắp đó đây tìm kiếm nhưng vẫn không có một tin tức nào về đứa con gái yêu thương.

Tính vào thời điểm của năm 1992 thì con gái Ông cũng đã hơn 30 tuổi rồi, có nghĩa từ khi Cha con thất lạc nhau đã hơn 20 năm, nhưng lúc nào cũng thương nhớ con, mong đợi một tin lành tốt đẹp. Ông đã nhờ người đăng mục Tìm Người Thân trên báo và mong mỏi, hy vọng có ngày sum họp đoàn viên.

Hằng ngày, Ông cố gắng tập thỉnh chuông Đại Hồng Chung, phụ làm những công việc lặt vặt trong chùa... Ông tên Huân, Sư Phụ đặt pháp danh Thị Nghiệp, nhiều lúc Ông thường hay tự nói một mình: “Đời trước vụng về không Huân Nghiệp tốt để đời này khổ đau như vậy, ráng tích lũy được chút phước lành để làm vốn cho đời sau. Cầu mong được sớm xuất gia tu hành”.

  Đứa con gái, là tài sản duy nhất trong cuộc đời của tôi đó mấy Chú.

Ông nói trong chất giọng thều thào, bệnh ông lúc này đã nặng, phải đưa vào bệnh viện Biên Hòa mấy lần. Biết được nỗi lòng của Ông như thế nên mấy huynh đệ trong chùa thường góp những đồng tiền ít ỏi để mua pin cho Ông nghe tin tức. Đối với Ông đó là niềm hy vọng và niềm vui cũng như có một chút động lực để sống còn với sự khổ nhọc ở cuộc đời và chống chọi cơn bênh tật của tuổi già.

Hình ảnh mà Tiểu An vẫn còn nhớ nhất là những ngày cuối đời của Ông. Tuy trong người không còn khỏe, thậm chí không ăn cơm cháo được, nhưng cũng ráng ôm chiếc radio để bên cạnh. Đến khi Ông biết mình không thể nào sống thêm được nữa bèn nói với Tiểu An:

- Bây giờ có lẽ tôi không còn nghe radio được nữa rồi, Chú nhớ nghe tin tức giùm nhé. Nếu có tin người tên đó, họ đó… thì cho tôi biết.

Tiểu An lúc bấy giờ không còn sự lựa chọn nào khác nên gật đầu và nói:

-  Thôi Cụ ráng niệm Phật đi, mọi chuyện sẽ ổn thôi.

Ông như có chút tạm yên tâm sau lời trấn tỉnh của Tiểu An. Tuy vậy, trong lòng cũng không vui gì, tay cầm xâu chuỗi ráng niệm Phật nhưng có lẽ trong lòng vẫn nhớ mong người con gái của mình.

Sau mấy lần nhập viện, Bác Sỹ nói Cụ chỉ còn sống được trong thời gian ngắn nữa thôi, nhưng nỗi vướng mắc nhất trong lòng vẫn là người con gái. Nhóm Phật tử thân cận và mấy chú thay phiên chăm sóc Cụ. Đến lúc này, tuy Cụ cũng không còn nghe được gì nữa nhưng vẫn muốn để chiếc radio bên cạnh cho được an lòng.

- Cụ ơi, có tin tức rồi. Con Cụ vẫn còn sống mạnh khỏe và đã có gia đình, Cụ có cháu ngoại rồi. Cụ vui vẻ sống và dốc lòng lo niệm Phật nha.

Cụ không nói nỗi, nhưng khi nghe như vậy, ráng nghiêng người và cố gắng nở nụ cười nhẹ trên môi, đôi mắt mở to ra như một lời cám ơn và mãn nguyện.

Chiếc radio cũ giờ đây được thay thế bằng chiếc máy niệm Phật. Hơn mười ngày sau Cụ qua đời, thọ 79 tuổi.

Đến mãi tận sau này, Tiểu An vẫn còn cảm thấy có lỗi về sự nói dối của mình, dù rằng nói dối để Cụ nhẹ lòng, vì hoàn cảnh thực tế lúc ấy không còn biết cách nào để giúp Cụ.

Phật dạy: “Tình thương của Cha Mẹ dành cho con không bao giờ nhạt phai, tình thương ấy có đoạn chăng chỉ hơi thở cuối cùng”. Quả thật trên đời không có tình thương nào bằng tình thương của Cha Mẹ dành cho con. Dù hoàn cảnh, thân phận nào đi chăng nữa thì tình thương ấy gần như không có sự sai biệt. Tuy rằng theo lời Phật dạy tất cả những mối liên hệ ấy từ Ái nhưng tình thương của Cha Mẹ thương con là tình thương thiêng liêng cao cả nhất. Hình ảnh Ông Cụ già cầm chiếc radio trong tay mỗi ngày với niềm tin thật mong manh nhưng vẫn trông đợi. Dù lý trí Ông biết vô vọng nhưng vẫn chờ mong bởi vì tất cả xuất phát từ tình thương của người làm Cha Mẹ. Tiểu An cũng không biết con Ông còn sống không hay đã chết. Nếu như còn sống, có lẽ Cô cũng trông đợi có ngày gặp lại Cha Mẹ của mình? Hay có thể Cô cũng hờn trách Cha Mẹ mình đã bỏ mình trong cuộc đời đơn côi, lạnh lẽo thiếu vắng tình thân? Cô ấy đâu có biết rằng, ở phương trời xa xôi, Cha của Cô lúc nào cũng trông đợi, thậm chí trông đợi trong mõi mòn, ân hận, tự trách!  

Con người sanh ra trong cuộc đời ai cũng muốn được gần người thân của mình, đặc biệt là Cha Mẹ. Thế nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng như mọi người mong ước, có nhiều vị tuy hiếu thảo nhưng cũng phải đành xa quê Cha đất Tổ sống bôn ba lưu lạc xứ người, vì những hoàn cảnh riêng biệt. Dù xa nhưng lòng lúc nào cũng hướng vọng về nguồn cội thiêng liêng của mình. Và trong xã hội cũng không thiếu những người có đủ điều kiện lo cho Cha Mẹ nhưng vẫn cứ hững hờ, thờ ơ, bận tâm quá nhiều vào những thế sự phù hư, vào danh lợi, những ảo ảnh của đời thường... rồi vô tình để thời gian phủ lên tấm thân già nua còm cõi của Mẹ Cha và thoáng chốc vô thường cướp mất, đến khi chợt nhận ra, nuối tiếc thì đã muộn màng.

Hôm nhập liệm Cụ, Tiểu An ân cần để chiếc radio bên cạnh Ông trong quan tài và xin lỗi Ông về lời nói dối bất đắc dĩ của mình. Mong Cụ được thanh thản ra đi. Hai hôm sau, đưa Ông ra nghĩa trang, tiếng chuông mõ vang lên đều cùng hòa lẫn tiếng Niệm Phật của Đại Chúng. Cầu nguyện Hương Linh Ông nương tựa oai lực Tam bảo, rũ bỏ trần duyên, một lòng niệm Phật, được tái sanh vào gia đình chánh tín Tam Bảo, đồng chơn xuất gia như tâm nguyện cuối đời mà Ông hằng ao ước.

Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Mùa Đông năm 2020

Thích Hạnh Phẩm


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 5762)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3848)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4699)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15427)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3180)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11414)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18716)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6334)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3260)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
07/02/2015(Xem: 4739)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]