Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bên Cánh Cửa Tre (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do PT Tường Dinh diễn đọc)

29/05/202010:49(Xem: 3697)
Bên Cánh Cửa Tre (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do PT Tường Dinh diễn đọc)

canh cua tre

Bên Cánh Cửa Tre
Truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm

do PT Tường Dinh diễn đọc





Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh…

- Tâm hả con, vào nhanh đi.

Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo:
- Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!

Tiểu Tâm rón rén thay vội bộ quần áo đã ướt, đến bên nồi lửa than hơ tay, đi nhanh đến phía Tổ Đường lạy ba lạy rồi về phòng. Mấy huynh đệ đã ngủ yên, chú nằm đó nhưng vẫn miên suy nghĩ, chú vẫn thút thít dù Hòa Thượng chẳng đánh roi nào.

Tiết trời mùa đông, từng trận mưa phùn rả rích suốt cả tuần, từng trận gió lạnh thổi tới đâu như những con dao bén thoa muối cắt vào da thịt. Nếu ai đã từng sống ở miền Trung xứ Quảng chắc chắn rằng không thể nào quên những cơn lạnh tái tê như thế. Người dân xứ này nếu như nhà nghèo thì mùa đông là một cực hình, phần lớn là do thiếu đồ ấm, lò sưởi, chưa nói đến là phải chạy lo miếng ăn từng bữa. Hầu như, những người lớn tuổi già yếu thường hay từ trần trong những lúc thời tiết khắc nghiệt như vầy. Tôi còn nhớ, lúc còn nhỏ, mỗi khi tới mùa đông, ông bà nội tôi phải co ro trong mấy chiếc bao bố tời dầy cộm, rồi thường xuyên cứ ngồi bên cái nồi lửa mà mẹ tôi mỗi khi nấu cơm xong thường lấy than để vào trong đó. Nhiều lúc tôi thấy chân của ông bà nội tôi thường nứt ra đổ máu do không chịu nỗi với cái lạnh.

Ấy thế, tại một làng nông thôn xứ Quảng ấy, có một ngôi chùa với vị Hòa Thượng tuổi ngoài bảy mươi cùng với những người đệ tử sống thanh bần tu niệm. Vị Thầy ấy tuy không phải là bậc thông kim bác cổ, hay có tài năng gì xuất chúng nhưng đức của Ngài cuộc sống chuyên tu, thanh bần, giản dị, thật làm cho người nể phục, là ngọn lửa hồng sưởi ấm cho bà con xóm làng trong những ngày đông giá rét, như gió mát của mùa hè oi bức não lòng, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho dân làng trong những khó khăn nghịch cảnh. Ngài ít nói chuyện, thậm chí cũng ít nói về đạo lý, nhưng từng oai nghi của Ngài thật là những bài pháp không lời có năng lực hết sức đặc biệt. Và mỗi khi Ngài nói ra như được lưu xuất từ tấm tình thương bao la vô hạn của Ngài.
Dân chúng nơi này hầu hết đều làm nghề nông, vì vậy chùa là nguồn vui tinh thần chính cho bà con trong thôn xóm. Ngày, nơi đồng ruộng; đêm về cùng nhau đến chùa thắp hương lễ Phật, tụng kinh, những ngày Sóc Vọng, hoặc ngày mùa thì còn có thêm chè xôi, hương nếp mới. Tuy không phải là cao sang nhưng cuộc sống bình dị ấy đã truyền từ bao thế hệ, nó đã trở thành một nguồn sống linh thiêng trong huyết quản của người dân xứ này.

Ngôi chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên cạnh dòng sông, phía sau chùa là ngọn đồi nhỏ bao bọc, chính vì địa thế như vậy nên mỗi khi đến mùa đông chùa càng lạnh hơn những nơi khác, nước sông thường nhiều hơn do những trận mưa đổ về, rồi từng trận gió cứ lùa từ sông và đi thẳng vào chùa nên mùa đông lạnh càng thêm lạnh.

Và cứ thế nhịp sống của mái chùa quê và cứ êm ả trôi qua trong tình yêu thương che chở của Thầy, thời chiến tranh quê hương bị chìm trong khói lửa, mái chùa cũng một thời bị đỗ nát hoang tàn, nhưng rồi nơi chốn ấy vẫn trở lại hồi sinh với dân làng mộc mạc.

Ngoài vị Hòa thượng tôn kính ấy chùa còn có mười người đệ tử nữa, ngoài những lúc trong thời khóa tu học, các vị ấy vẫn cần mẫn với thửa ruộng và miếng vườn của chùa. Tinh thần “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực- Một ngày không làm, một ngày không ăn” của Tổ Quy Sơn đã thấm đượm trong chốn thiền môn, Tuy làm đây không phải để phát triền kinh tế nhưng cũng để một phần tự túc trong sinh hoạt vừa canh chừng miếng ruộng phước điền của tâm cho những hạt giống tốt được nảy mầm xanh tốt và loại bỏ những hạt giống xấu có nguy cơ làm cho mảnh đất tâm bị đầy cỏ dại. Hơn nữa, làm việc vừa phải trong chánh niệm của người tu thì đó cũng là một trong những pháp môn tu. Hòa thượng cũng thường hay nhắc nhở các môn đệ quan niệm của một nhà tu hành về những vần đề tài vật, và những thứ đó chỉ là những phương tiện tạm thời cho một giai đoạn hay một trú xứ nào đó thôi. Ngài luôn đặc biệt lưu ý đến việc giáo huấn hàng đệ tử của Ngài bằng thân giáo với lòng từ bi độ lượng dù bất cứ trường hợp nào.

Tiểu Tâm con út trong nhà, vào chùa được hơn hai năm, chú thường hay nói cũng không phải vì thích tu nhưng vì thích cảnh chùa nên vào chùa vậy thôi. Thời gian gần đây, Chú thường nói hay nhớ nhà, sau thời kinh tinh độ, thỉnh thoảng chú lén chạy về nhà rồi vội vàng về chùa, mấy tiểu khác vẫn biết nhưng không dám nói ra.

Tối đêm đó, trong một đêm mưa tầm tả, gió từng cơn giật mạnh làm cho bụi tre phía sau chùa như từng hồi gào thét, phía dưới sông nước trên đầu nguồn đổ về làm cho dâng cao, trời càng thêm lạnh.

Ầm…ầm, cánh cửa sau của chùa làm bằng phên tre chỉ khép hờ bị ngọn gió mạnh đánh bật va vào vách, Hòa Thượng nhẹ nhàng khoan thai kéo đóng lại nhưng không cài then, chỉ lấy viên đá kê chắn không cho gió lùa vào. Sau đó, Hòa Thượng về phòng, ôm tấm chiếu tre đem xuống trải ra nằm sau tấm cửa, vì Hòa Thượng lo cho Tiểu Tâm không vào được trong nhà giữa đêm mưa lạnh cóng.
Sau đêm Đông ấy, Tiểu Tâm

như hoàn toàn một người mới, như một khởi điểm cho lộ trình tu học,chú từng bước trưởng thành nhanh chóng với thời gian…
- Ở đời, dù học nhiều kinh điển đi chăng nữa, đôi lúc tưởng chừng như quên hết, chỉ còn lại chút tình thương để sống với đời.
Thầy tôi nói khẽ trong cảm xúc, bên ngoài ánh nắng ban mai đang chiếu nhẹ vào mái chùa tranh, qua khung cửa, một sự trùng hợp đến lạ kỳ, cũng tấm cửa bằng tre do chính Thầy tôi kết. Lắng lòng xúc cảm, cách đây hơn 40 năm bên trong cánh cửa tre Sư Ông đã đợi Thầy tôi, dìu Thầy tôi vào Đạo; và bây giờ, bên trong cánh cửa tre của ngôi chùa quê bình dị, Thầy Tôi đã đưa huynh đệ chúng tôi từng bước trưởng thành nơi chốn thiền môn, một khởi điểm của tình thương để làm chất liệu sống giữa biết bao giông tố của cuộc đời…

Thích Hạnh Phẩm
Melbourne, mùa Đông năm 2020




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43839)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4409)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4350)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4271)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6379)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4671)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4093)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25208)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24157)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21275)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]