Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản Văn: Thần Chú và Thần Lực

02/03/202021:56(Xem: 3124)
Tản Văn: Thần Chú và Thần Lực

                                                                                                          mattong_2
                                                                                 Tản văn

THẦN CHÚ và THẦN LỰC

        Truyện ngắn "Trong cốp xe" của TK Vĩnh Hữu được đăng trên Thư Viện Hoa Sen vào ngày 16/02/2020, có đoạn:

        ... "Anh chú tâm niệm Phật, đúng ra là niệm Chuẩn Đề đà-la-ni, chỉ để thêm đạo lực, thêm ý chí mà vượt qua thời khắc khó khăn thử thách, quên đi mệt nhọc thân xác..."

         Tác giả chỉ nhắc qua việc "niệm chú" thật ngắn, không diễn bày hay kể lể gì thêm, lướt qua thật nhanh để trở về với mạch truyện. Chắc rất ít người lưu tâm để ý đến chi tiết vô cùng huyền diệu này, vì đang bị cuốn hút theo dòng trôi của câu chuyện "hết xăng, dắt xe đi bộ".

         Một tuần sau, cũng trên website TV Hoa Sen, thấy xuất hiện bài "Thần Chú Chuẩn Đề" của thầy Thích Nhuận Châu, xin trích đoạn:

 

        "Thần chú Chuẩn Đề là một thần chú mầu nhiệm mà ba đời chư Phật đã từng tuyên thuyết và chư đại Bồ tát, thiên long bát bộ đã từng hộ niệm. Thần chú Chuẩn đề đã từng đem đến hạnh phúc, an lành cho vô lượng chúng sanh...

 

Khể thủ quy y Tô tất đế

Đầu diện đảnh lễ Thất câu chi

Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.

Om Cale Cule Cundi Soha

Nam Mô Tát Đa Nẩm,

Tam Miệu Tam Bồ Đề,

Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha.

Om Cale Cule Cundi Soha,

Om Cale Cule Cundi Soha..."

 

         Vào những tháng ngày cuối năm 1984, đầu năm 1985, khi ngôi chùa tranh vách đất Long Quang (xã Bàu Cạn - huyện Long Thành- Đồng Nai) vắng bóng Thầy trú trì, chư tăng tứ tán mỗi người một phương, tôi bấy giờ đã phát nguyện xuống tóc, ăn chay trường, quyết bám trụ lại với vùng đất thân thương này, hằng ngày hằng đêm ra vào "coi ngó, trông nom" ngôi chùa nghèo vùng kinh tế mới cùng với bà con Phật tử Ấp 5 để nơi thờ phụng ngôi Tam Bảo không rơi vào cảnh hoang lạnh ưu sầu, đồng thời tự thân cũng dùng hết khả năng để duy trì, giữ gìn nề nếp sinh hoạt của Ban Hộ Niệm với đa số là các em thanh thiếu niên đang gặp phải chướng duyên "mất Thầy"...

          Chính trong thời gian đó, tôi đã tụng niệm kinh Dược Sư, bản kinh do Hòa thượng Trí Quang dịch nghĩa (bản kinh này Me tôi được Hòa thượng ban tặng từ lâu, và đã chuyển gửi từ Nha Trang vào Long Thành cho tôi từ đầu năm 1984), và mỗi khuya vắng lặng đều trì "Chú Chuẩn Đề" với tâm nguyện được "chứng đắc đạo lực nhiệm mầu" để "cứu giúp người hoạn nạn nghèo khó, giốc lòng phụng sự đạo pháp".

   ... Một buổi gần trưa, tôi đi rảo một vòng từ chùa về quanh Ấp 5 như mọi ngày, khi ngang qua một khoảnh đất xanh rì và dầy đặc khoai mì, thấy có hai người đang lui cui cặm cụi thu hoạch. Tôi dừng lại, nhận ra là hai mẹ con thím Hai hàng xóm, mới hay đây là đất tăng gia sản xuất tách biệt với căn nhà của gia đình chú thím Hai, một gia đình Phật tử.

      Thím Hai đau yếu mà phải dang mình dưới nắng để dùng dao chặt củ ra khỏi từng bụi khoai mì từ cô con gái chân yếu tay mềm nhổ lên theo từng hàng. Tôi đứng quan sát, thấy tốc độ thu hoạch quá chậm, chỉ mới được chừng hai mươi hàng mì giữa cỏ gai rậm rạp, trong khi chung quanh, trước mắt phải đến hai sào chưa chạm tới. Động lòng, tôi băng vào, chào hỏi, rồi thưa với thím Hai:

        "Để con nhổ phụ, thím với em lo chặt và gom vô bao cho nhanh, chứ trưa nắng lắm rồi!"

       Lúc đó tôi đang mặc chiếc áo thun tay ngắn, nên đề nghị em gái cởi chiếc áo khoác tay dài và đôi găng tay của công nhân cao su ra cho tôi mượn tạm để "bảo hộ lao động" trước khi bắt tay nhổ những bụi khoai mì lên khỏi đất cứng.

       Vậy rồi, tôi niệm ba lần “Chuẩn Đề đà-la-ni”, bắt đầu cứ hít một hơi thật sâu, khom xuống, hai tay nắm gần gốc bụi mì, thở ra, nín hơi, lay gốc, nhổ lên, thở ra, bước tới, khom xuống, tiếp tục, tiếp tục với tốc độ vừa phải, đi theo từng hàng mì từ phải trái, từ phải qua trái rất trật tự trong bình thản... Tôi chỉ biết là mình đang làm công việc nhổ mì, không nghĩ gì khác, không ngó ngàng gì đến chung quanh, thao tác liên tục đều đặn không nhanh hơn cũng không chậm lại, không nghỉ giải lao, vậy mà không hề thấy mệt, hơi thở vẫn nhịp nhàng ra vào không hỗn hễn... cho đến khi bụi mì cuối cùng của hàng cuối cùng được bứng lên khỏi mặt đất mới dừng lại, rảo mắt nhìn quanh, và nhìn phía sau.

      Nam mô Phật! Tôi đã nhổ xong hơn một sào rưỡi khoai mì chỉ qua một tăng, đúng là một tăng, không có tăng hai tăng ba, và hai mẹ con thím Hai không thể đuổi theo tôi kịp để chặt củ thu gom. Cả hai mẹ còn đang còn loay hoay cặm cụi ở giữa bãi chiến trường, nghĩa là chỉ mới chặt gom củ được một sào, còn một sào mì đã nằm phơi những bụi bụi củ củ trên mặt đát theo hàng theo lối, chứ không phải ngổn ngang lộn xộn, đang chờ được vào bao chở về nhà.

      Vì lúc đó mới cảm thấy... mệt, tôi ngồi bệt xuống, xếp bằng, cởi áo khoác, tháo găng tay ra để một bên, đặt hai lòng bàn tay úp xuống đất, điều tức hơi thở, cứ y như là đang hút điện từ dưới lòng đất chạy lên rồi truyền vào nhục thân. Em gái băng lại chỗ tôi ngồi nghĩ, lẳng lặng nhặt lại chiếc áo và đôi găng, nhìn tôi với ánh mắt tràn đầy "kính nể", nói:

       "Không ngờ anh khỏe đến vậy. Làm một hơi không nghỉ, quá kinh ngạc!"

        Tôi còn phải kinh ngạc với chính mình, huống chi người khác, vì ai cũng thấy biết rõ tôi không phải là một chàng trai vai u thịt bắp, cường tráng vạm vỡ, hay “dũng sĩ lao động”, mà chỉ là dân thị thành trôi dạt với vóc dáng thư sinh chỉ giỏi đàn ca vẽ vời thơ thẩn... Chỉ chừng mười lăm phút nghỉ ngơi phục sức, tôi đã khỏe lại như lúc mới bước vào “cuộc chiến”.

          Còn một vài câu chuyện ly kỳ, nhiệm mầu khác nữa đã diễn ra trong thời gian tôi tu trì “Chuẩn Đề đà-la-ni”, nhưng tôi sẽ không kể thêm ra đây. Những chuyện này thuộc về “mật tông”, mà mật thì đúng ra phải bí mật, giữ kín giấu kỹ, không phơi bày ra, không được khoe khoang, chỉ ai chứng được và những người trong cuộc mới biết và hiểu được.

Hôm nay, nhân ngày Thái tử Tất-Đạt- Đa rời bỏ kinh thành, xuất gia cầu đạo giải thoát, tôi chỉ xin kể lại chuyện “nhổ mì” đã xảy ra cách đây đã tròm trèm 35 năm, lâu rồi, cũ rích, chỉ có ý muốn truyền đạt lại cho mọi người một điều rằng:

       "Hãy luôn giữ tín tâm, niềm tin không mảy may suy suyển hao vơi với Phật pháp nhiệm mầu!"

         Những người được nhắc trong câu chuyện này, người trong cuộc, nay vẫn còn sống sờ sờ, và chắc cũng không quên chuyện "nhổ một tăng gần hai sào mì”, sẽ làm chứng cho tôi nếu ai đó nghi ngờ truy tra dò hỏi!

        Tôi nhớ rõ, hồi đó, khi chứng đắc được “đạo lực nhiệm mầu” sau một tháng tu trì, tôi đã nhờ một đạo hữu chở bằng xe đạp vượt đường xa đến chùa Bửu Lâm để xin yết kiến, tham vấn Thầy Kiến Tánh. Khi nghe tôi tường thuật đầu đuôi, Thầy không ngạc nhiên chút nào, chỉ giải khuyên:

         “Sở dĩ không gọi Phật chú, mà gọi là Thần chú, vì người tu trì đà-la-ni sẽ luôn được chư vị Long Thần Hộ Pháp theo phò hộ, truyền thần lực, chứ không phải đức Phật hay vị Bồ Tát nào trực tiếp ban truyền đạo lực cho ta. Điều quan trọng nhất mà con phải luôn nhớ, tu trì Mật tông, hành trì pháp nhiệm mầu là điều rất tốt, rất quý báu, nhưng đó là”Con Dao Hai Lưỡi”! Nếu chỉ một niệm dấy lên vì tư lợi bản thân, nghĩ đến danh, đến lợi, đến phước đến đức cho mình mà hành trì thì sẽ tác hại vô cùng…”

       Trong bài pháp của Thầy Thích Thiện Châu đăng trên TVHS vừa rồi còn có đoạn:

       “Người trì chú này nếu dụng tâm chân chánh muốn làm việc gì thì đều được hanh thông, nói ra lời gì cũng đều được người nghe tín thọ.”

         Dụng tâm chân chánh. Phải hiểu rõ nghĩa là gì, và phải luôn nhớ điều đó!

        Thêm một chuyện nữa mà tôi cần nhắc đến trước khi chấm hết bài tự sự này:

        Từ hồi đó, xin lấy cột mốc 1984, đến nay, nhờ có thời gian dài trì tụng Kinh Dược Sư, và luôn luôn về sau này trì "Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn", nên tôi đã vượt qua được nhiều lần bệnh nặng, bệnh duyên nguy nan (tim, gan, phổi, dạ dày, ruột... đều mắc bệnh), gặp được nhiều quý nhân giúp đỡ đúng lúc, nhiều bác sĩ mát tay chữa trị nhanh chóng bình phục. Thật kỳ diệu là trong suốt 35 năm qua, trong từ điển cuộc sống của tôi không hề có từ "nhập viện, xuất viện", chưa lần nào tôi nằm trên giường của bất cứ bệnh viện, hay trạm xá, bệnh xá nào.

      Kệ, ốm ốm xương xẩu mà không bệnh là quý rồi, gìn giữ tinh thần và niềm tin cho vững chãi, và chỉ sợ Tâm Bệnh mà thôi.

      Nam mô Thiên Long Hộ Pháp chư tôn chứng minh!

 

Tâm Không  - Vĩnh Hữu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6630)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4855)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10106)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3624)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4824)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5057)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7537)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4235)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13462)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3628)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]