Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế. (Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư)

29/02/202022:18(Xem: 3593)
Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế. (Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư)
Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế.
(Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư)
Thích Như Điển

 

Đọc câu văn trên bằng chữ Hán, có nhiều người sẽ hiểu đại khái là: Vô thường già bịnh không hẹn một ai. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát na đã qua đời khác…. Dĩ nhiên là bài văn Cảnh Sách nầy còn nhiều đoạn ở trước và sau đó nữa, chứ không phải chỉ có hai câu nầy. Đây là sách gối đầu giường của những Chú và Cô Sa Di, Sa Di Ni lúc mới thọ giới xong, cần phải học thuộc lòng. Thế nhưng, đây cũng không phải chỉ hoàn toàn dành cho người mới vào cửa Đạo, mà những vị thâm niên ở chùa năm, bảy chục năm khi đọc lại những đoạn văn Cảnh Sách như thế nầy ngẫm ra thấy cũng thấm thía vô cùng. Trong giới tu hành không ai phủ nhận điều nầy cả, mà ngay cả người Phật tử hay người khác Đạo, khi nhận chân ra được sự vô thường của mọi vật thể trên thế gian nầy, thì cũng đều công nhận lời dạy của Tổ Quy Sơn chẳng sai một mảy may nào.

 

Sở dĩ kỳ nầy tôi lấy đề tài hơi dài như vậy, vì sau khi Thầy Trò chúng tôi đã ở tại Tu Viện Vô Lượng Thọ, nơi Thầy Hạnh Tấn Trụ Trì gần một tuần lễ để dịch quyển “Giới Đàn Tăng” của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa sang tiếng Đức, nhằm giúp cho các thế hệ đi sau ở ngoại quốc nầy dễ hành trì khi trao truyền các giới như: Ngũ giới, Sa Di, Sa Di Ni, Bát Quan Trai giới, giới Bồ Tát Xuất Gia và tại gia, giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cho người Đức cũng như người Việt dễ hiểu hơn, đồng thời cũng để tán dương công hạnh của chư Tổ Sư Việt Nam đã truyền thừa qua các thời đại, không giống hệt những Tổ Sư khác của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay Tây Tạng, mà chúng ta có một văn hóa riêng, một ngôn ngữ riêng, khi đã xay nhuyễn từ chữ Hán như Phật giáo Nhật Bản đã làm lâu nay. Kế đó chúng tôi lái xe sang thủ đô Phraha của Tiệp Khắc vào cuối tuần từ ngày 21 cho đến ngày 24 tháng 2 năm 2020 vừa qua. Trước đó phái đoàn chúng tôi cũng đã có ghé thăm Chùa Giác Ý của Thầy Hạnh Tâm tại Zwickau, Tịnh Thất nơi Thầy Hạnh Nhơn ở tại Muda và trên đường đi Finsterwalde ở Pechhutte cũng như địa phương điện ảnh nổi tiếng Karlovy Vary(Karlsbad) cả hai nơi đều có Tu Viện Pháp Quang và Pháp Quang Chơn Pháp do Thầy Thích Pháp Nhật Trụ Trì. Nơi rừng rậm và những cánh đồng hoang, ở tận chỗ rừng tối tăm(Finsterwalde)như thế, mà có ánh sáng Phật Pháp để cho những người Việt và Đức theo học Thiền thì quả thật là quá tuyệt vời rồi. Hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 2020. Ngày nầy, tháng nầy, năm nầy có đến 5 con số 2 và cũng là ngày tôi đã ở ngoại quốc đúng 48 năm, và khi quý vị đọc bài nầy của tôi viết thì đã sang năm thứ 49 mà tôi đã ở ngoại quốc rồi. Đó cũng là vô thường vậy. Vì ngày 22/2/1972 khi tôi rời nước Việt sang Nhật Bản du học, thì tôi cũng đã chẳng nghĩ rằng mình phải ở lại ngoại quốc cho đến ngày hôm nay. Chỉ còn gần 2 năm nữa là tôi sẽ ở ngoại quốc được nửa thế kỷ rồi còn gì nữa. Ở đây cũng có sự trùng hợp lạ thường là trưa đó Thầy Pháp Nhật dẫn phái đoàn Thầy trò chúng tôi đến nhà hàng Mr. Tokyo chưa khai trương, để dùng trưa theo truyền thống cơm chay của Nhật Bản gồm Sushi, cơm bì và tráng miệng theo phong thái Nhật. Người ta sẽ dễ bị gợi nhớ lại khi một sự kiện gì đó trong quá khứ hiện trở về, nên hôm đó tôi đã phóng bút viết tặng bằng chữ Hán Nhật như: Đa Phúc, Đa Lộc, Đa Thọ, Đa Tài để tặng cho chủ nhà hàng và thầm cầu nguyện cho cửa hàng nầy luôn buôn may bán đắc.

ht thich nhu dien (1)ht thich nhu dien (2)ht thich nhu dien (3)ht thich nhu dien (4)ht thich nhu dien (5)ht thich nhu dien (6)

 

Chiều tối hôm ngày 22/2/2020, phái đoàn chúng tôi đã đến thành phố điện ảnh Karlovy Vary (Karlsbad) vốn khá nổi tiếng tại xứ cách mạng mùa Xuân nầy. Khi nói đến thành phố nầy bằng tiếng Tiệp hay cả tiếng Đức, mọi người không ai là không biết. Trước biên giới giữa Đức và Tiệp có một địa phương được gọi là Schwarzenberg(Núi Đen) và khi đến biên giới thì thấy vô số hàng hóa áo quần do người Việt Namđiều hành phân phối. Chỉ cách có một biên giới thôi, nhưng cách sống của người Việt ở hai nước khác nhau vô cùng. Ở Đức đa phần người tỵ nạn hay những du học sinh trước đó đều được vào làm trong các hãng xưởng hay các cơ quan chính quyền. Ngược lại ở Tiệp Khắc đa phần người Việt Nam đến đây bằng lao động chân tay, nên sau cách mạng nhung của Tiệp Khắc vào năm 1989, họ đã ra kinh doanh tự túc và lập nên những cửa hàng dã chiến tạm bợ để sống qua ngày. Chỉ có thế hệ thứ hai, con cái của họ được sinh ra tại nơi đây, chúng khá thành công trong vấn đề học vấn, nên hầu như không có thanh niên nam nữ nào ở thế hệ thứ hai nầy muốn tiếp tục công việc buôn bán của  cha mẹ chúng nữa. Chỉ mới một thế hệ thôi, mà đã có nhiều thay đổi như vậy.

 

Sáng sớm ngày 23/2/2020, Thầy Trò chúng tôi sau thời Lăng Nghiêm lại lên đường hướng về Phraha để đến chùa Quan Âm, nơi Thầy Quảng Chánh Trụ Trì. Phraha tôi đã một lần đến, cách đây chừng 25 năm về trước và hôm nay là lần thứ hai. Vẫn những cánh đồng bát ngát trải dài như xưa cũ, nhưng đường sá bây giờ có phát triển hơn. Tuy xa lộ chưa được trải nhựa hết từ Karlsbad, nhưng nay mai chắc chắn xa lộ sẽ được nối liền thẳng tắp từ đó cho đến thủ đô quan trọng nầy. Nước Tiệp chỉ có độ trên dưới 10.000.000 dân, trong khi đó có đến 60.000 người Việt Nam sang đây lao động, buôn bán làm ăn và tất cả hầu như đều tập trung tại Phraha. Nơi đây có trung tâm thương mại SAPA và các chùa Vĩnh Nghiêm, Quan Âm v.v… tuy nói là chùa, nhưng trên thực tế chỉ là những căn nhà thuê tạm để chờ cơ hội phát triển lớn mạnh hơn, khi những Phật tử ở đây đã có đầy đủ điều kiện vật chất. Tại chùa Quan Âm chúng tôi đã chia sẻ pháp thoại về những ngày lễ vía Phật và Bồ Tát trong tháng hai âm lịch mỗi năm, cũng giống như tại Karlsbad chúng tôi đã nói về Thiền Phái Trúc Lâm, hay ở Finsterwalde chúng tôi trao đổi về Tiểu Tam Tai và Đại Tam Tai theo “Phật nói Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới”. Cả ba nơi nầy Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Thông Triển cũng đã chia sẻ những câu trả lời đến với Quý Phật tử hiện diện.

 

Buổi chiều ngày 23/2/2020, Phái đoàn chúng tôi được Thầy Quảng Chánh và các Phật tử địa phương dẫn thăm phố cổ Phraha, cầu Vua, xem đồng hồ cổ và chochim trời ăn v.v… đây là những kỷ niệm thật khó quên khi nhớ lại những ngày ở Tiệp Khắc lần nầy. Đồng hồ mỗi giờ có con gà trống ở bên trên lầu thò đầu ra gáy và 12 Thánh Tông Đồ chạy quanh đủ 12 lần quay của kim giờ trong vòng một phút và cứ như thế ngày đêm 24 lần và mỗi lần như vậy có cả hằng trăm, hàng ngàn người đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung tại quảng trường nhỏ hẹp nầy chỉ để xem con gà gáy mà thôi. Không biết về đêm thì như thế nào, nhưng chắc rằng dầu cho con người thức hay ngủ thì con gà trống kia vẫn ra chào khách đúng 24 lần như vậy trong một ngày, một đêm.  Chắc rằng đồng hồ nầy cũng bị sự vô thường chi phối trong nhiều thế kỷ qua; nhưng người ngồi giật giây chuông đồng hồ vẫn kiên nhẫn kéo lên nhấn xuống nhiều lần như thế trong ngày, trong tháng, trong năm cho đến khi chỉ còn những đốt xương hiện nguyên hình như thế, mà ông ta vẫn không dám lơ là về nhiệm vụ kéo giây thiều của mình. Tiếp đến phái đoàn chúng tôi đi xem cây cầu Vua, mà đa phần người Việt Nam sinh sống tại đây đều gọi là cây cầu Tình, vì ở bên cạnh cây cầu nầy, những đôi nam nữ yêu thương nhau thường hay đến đây tự khóa chiếc khóa bằng sắt vào thành cầu để chứng minh cho sự chung thủy của họ. Nó cũng giống như chiếc cầu Tình trên sông Seine tại Paris vậy. Cả hằng ngàn, hằng vạn ổ khóa đã được khóa chặt trên thành cầu nầy, nhưng không biết đã có được bao nhiêu cặp giữ lại được ổ khóa tình duyên ấy cho đến khi đầu bạc răng long và cũng không biết có bao nhiêu người đã ngựa sang đường mới? Việc nầy chỉ có người trong cuộc mới biết được, còn chúng ta là khách bàng quan, chỉ đến đây một lần rồi từ giã thành phố thơ mộng nầy, thì làm sao chứng thực được rõ ràng những lời thề non hẹn biển ấy. Gió lộng làm chúng tôi xuýt xoa thân phận của những kẻ đang qua cầu và năm nay ở Âu Châu hầu như không có nơi nào tuyết rơi, chỉ trừ trên núi cao nên những chuyến thám hiểm như vậy, quả thật còn thiếu độ lạnh của tuyết nữa, nếu có tuyết thì lúc ấy mới thật là ý vị vô cùng. Cuối cùng thì đoàn đã đến dưới mé sông để cho những con Thiên Nga, Hải Âu, Bồ Câu, Rái Cá và Vịt ăn bánh mì… chúng hôm ấy được một bữa no nê như chưa bao giờ trong mùa Đông lạnh giá mà được con người quan tâm chia sẻ với chúng về cái ăn như vậy. Những con Hải Âu đớp mồi thật giỏi, dầu cho ai đó cóliệng khúc bánh mì to hay nhỏ lên giữa không trung, chúng cũng có thể đớp một cách chính xác trước khi miếng bánh mì ấy rơi xuống dưới mặt nước.Saukhi về lại chùa Quan Âm, phái đoàn chúng tôi định sáng mai sớm lái xe trở về lại Hannover, nhưng qua sự thuyết phục của một số các Phật tử địa phương, chúng tôi không thể không đi xem nhà thờ làm bằng xương và sọ người tại Sedlec, cách Phraha chừng 60 cây số và độ chừng một tiếng đồng hồ lái xe thì đến. Thầy trò chúng tôi bàn nhau là phải nên đi, vì cơ hội đến lần nữa, chưa biết là khi nào.

 

Từ Phraha đi đường ngoằn ngoèo đến địa phương nầy cũng tốn ít nhất là 90 phút, nhưng nếu đi bằng quốc lộ thì chỉ tốn chừng 60 phút mà thôi. Trên đường đi, dọc theo các làng mạc, nơi đây cũng không khác gì xứ Đức là mấy. Nghĩa là những cánh đồng cò bay thẳng cánh, những rừng thông xanh mướt, mặc cho gió bấc hay lúc Đông sang…thỉnh thoảng mới thấy một vài ngôi nhà nhỏ thấp hiện ra, nhưng chỉ cần một thoáng mở mắt ra là thấy một thành phố cổ mang tên Sedlec. Nơi đây có vương cung Thánh Đường Maria và tòa giải tội St. Johannes. Nhà thờ nầy nằm ngay trên nghĩa địa, trong đó chứa rất nhiều bộ xương người cùng đầu lâu và những xương khác. Vương Cung Thánh Đường nầy được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Đọc qua lịch sử nơi đây thì được biết rằng nhà thờ được xây dựng từ thế kỷ thứ 12, năm 1142 (lúc ấy Việt Nam chúng ta đang là Triều Lý) và bên cạnh nhà thờ là nghĩa địa. Đến năm 1318 có nạn đói dữ dội đã có đến 30.000 người chết và được đem chôn tập thể tại nghĩa địa nầy. Đến đầu thế kỷ thứ 15 qua cuộc chiến canh cải  của Johann Hus về xã hội, Tôn Giáo và chính trị đã có 10.000 người chết cũng được chôn tại nghĩa địa nầy. Đến cuối thế kỷ thứ 15 thì được ký thác vào đây tất cả là 60.000 hài cốt. Tất cả đều nằm dưới đất của nhà thờ và nghĩa địa. Đến thế kỷ thứ 18 khi người ta sửa chữa lại ngôi Thánh Đường thì phát hiện thấy một số hài cốt lộ diện lên, vào thời gian nầy gia đình Ông Schwarzenberg là sở hữu chủ và năm 1870 Ông J. B. Santini-Aichl đã cho tu bổ lại bằng cách là cho nối kết tất cả những mảnh xương sọ, xương bả vai, xương chậu của những người đã chết v.v… trở thành một nhà thờ nhỏ nằm dưới từng trệt của Vương Cung Thánh Đường nầy.

 

Nếu ai đó sợ ma thì không nên đến chỗ nầy. Nếu đến đây vào ban đêm thì chắc còn rùng rợn hơn nữa. Bởi lẽ người chết có thể hiện về bất cứ lúc nào, nếu có sự tưởng tượng. Vì lẽ những người chết ấy chắc rằng hồn của họ sẽ không siêu thoát, dầu cho tín ngưỡng nào đi chăng nữa thì  chúng ta cũng nghĩ tương tự như vậy. Bởi họ là những người không và chưa muốn chết, nhưng vì dịch bệnh hay chiến tranh nên thân thể họ mới ra như vậy. Đến đây để chúng ta nhớ lại những nhà tù của Đức Quốc Xã giết mấy triệu dân Do Thái ở Dachaus, Berlin, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v… cũng như Pol Pot của Cao Miên hay Tết Mậu Thân năm 1968 tại Huế  do cộng sản Việt Nam thủ tiêu những người vô tội. Chúng ta chỉ biết cúi đầu để tưởng niệm và nhớ ơn họ cũng như tiếc thương cho họ có một cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế nầy. Do vậy chư Phật và chư Tổ Sư mới gọi là Vô Thường. Sự Vô thường về sống chết, già bịnh nó không đợi chờ người nào cả. Chỉ có những người còn phước báu thì còn có thể chống cự lại những nỗi khổ đau nầy để tiếp tục sống và trả nghiệp của mình; còn những người được gọi là xấu số đó, biết đâu trong đống xương cốt kia cũng là của chính mình đã qua thời gian năm tháng đi đầu thai rồi trở lại mà mình không nghe, không biết đấy thôi. Nếu ai đó muốn rõ, hãy đọc kinh Báo Ân Phụ Mẫu thì sẽ thấy tại sao Đức Phật lại đi lạy một đống xương khô. Vì Ngài cho rằng trong đó có cả Ông Bà Cha Mẹ của mình và đôi khi cũng chính là xương của mình trong bao đời xa xưa còn sót lại đó nữa. Cho nên sự vô thường nầy nó không luận là ai cả, trên từ các bậc Quân vương, Hoàng hậu, dưới cho đến những người khố rách áo ôm v.v… tất cả đều phải chết khi chúng ta đã có sự sinh ra.

 

Sự mất mát qua hình hài thể xác đó, Tổ Quy Sơn nhắm vào bốn  chữ “sớm còn, tối mất” là như thế. Chỉ trong một sát na, một hơi thở mà thôi. Khi hít vào mà không thở ra thì đó gọi là chết. Cuộc sống của chúng ta sẽ sang trang. Hỏi là bao giờ? Thì nào ai có thể trả lời được. Bởi vì mới sáng đó thì còn, nhưng tối đến lại mất. Đúng là một sát na chứ còn gì nữa. Đoạn sau của câu văn Cảnh Sách còn hay hơn nữa. Ngài đã ví dụ rằng: “Nó giống như sương của mùa Xuân, móc ban mai; chốc lát liền không, như cây bên bờ vực, như những giây leo mọc trên vách giếng, làm sao có thể lâu bền được?” Nếu ai đó sống lạc quan mà nghe đến đoạn văn nầy thì bảo rằng tại sao chư Tổ Sư lại bi quan như vậy? Đây đúng là mặt thật của pháp vô thường mà mấy ai có thể thẩm thấu được. Nếu có, đó chỉ là của người khác chứ không phải của mình. Cho hay sanh tử là đại sự nhân duyên. Nhân duyên ấy tùy thời gian và không gian mà xuất hiện. Nó có thể xảy ra trước ta như ở tại địa phương Sedlec nầy, tại Huế, tại Cam Bốt, tại Dachaus ở Đức hay tại nhiều nơi trên thế giới trong tương lai. Bởi vì ai sinh ra rồi cũng phải chết, dầu cho có sống đến hơn 100 năm ở cõi người hay nhiều ngàn năm ở cõi chư Thiên, khi phước hết, nghiệp hiện ra thì con người, chư Thiên, A Tu La v.v… cũng phải chịu chung sự Vô Thường ấy chi phối mà thôi.

 

Nhìn gương người xưa để lại trên thế gian nầy để chúng ta học những bài học luân lý đạo đức như trong quyển Mục Vụ số 383 tháng 3 năm 2020 xuất bản tại Thụy Sĩ trang 48 có viết một câu chuyện ngắn rất hay như sau: Đề tài là“Suy ngẫm về giá trị con người. “ Nhà toán học Ả Rập vĩ đại Al Khawarizmi khi được hỏi về giá trị của con người, đã trả lời:

. Nền tảng con người là đạo đức, nếu có Đạo Đức, thì giá trị của bạn là 1.

. Nếu cũng thông minh, thêm một số 0 và giá trị của bạn sẽ là 10.

. Nếu cũng giàu có, thêm một số 0 nữa và giá trị của bạn sẽ là 100.

. Nếu trên tất cả, bạn lại còn xinh đẹp, lại thêm một số 0 và giá trị tổng thể sẽ là 1000.

. Nhưng nếu bạn bị mất số 1, tương ứng với mất đạo đức, bạn sẽ mất tất cả giá trịvà giá trị của bạn chỉ còn là số 0.

 

Đọc qua đoạn nầy tôi thấy rất hay dầu cho sự sưu tầm ấy được đăng trên báo Mục Vụ của Katholische Vietnamesischen-Mission ở Thụy Sĩ mà lâu nay Linh Mục Giuse Phạm Minh Văn đã gửi biếu tôi hằng tháng và tôi đã đọc từ đầu chí cuối, ngoại trừ phần giáo lý và chắc rằng đây là câu chuyện của người Hồi Giáo chứ không phải của những người theo tôn giáo khác, nhưng dẫu cho tôn giáo nào đi chăng nữa thì ngày hôm nay ở thế kỷ thứ 20, 21 nầy, chúng ta đã có những buổi gặp mặt, thảo luận về đa tôn giáo tại quê hương nơi chúng ta đang sống thì tôi hay ví dụ rằng: “Nó cũng giống như trong một vườn hoa, nếu chúng ta chỉ có một loài hoa nở thì chắc rằng sẽ không đẹp bằng trong đó có nhiều bông hoa khác tươi thắm như Thược Dược, Cẩm Chướng, hoa Sen v.v… khoethêm sắc thắm khi nở hoa, thì vườn hoa ấy sẽ được nhiều người quan tâm và đến để thưởng ngoạn giá trị tâm linh cho mỗi người. Trong đó có giá trị đạo đức mà con người không thể nào bỏ ra ngoài tai được.

 

Viết xong vào lúc 12 giờ trưa ngày 28 tháng 2 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc để kỷ niệm chuyến đi Đông Đức và Tiệp Khắc trong thời gian vừa qua.

Sửa lỗi đánh máy: Phật Tử Thanh Phi

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5086)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11188)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9374)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7750)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3774)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6320)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87157)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6625)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4850)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4344)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]