Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện Ngắn: Thoát Khỏi Bóng

21/02/202022:21(Xem: 3480)
Truyện Ngắn: Thoát Khỏi Bóng

shadow_Buddhism
 Truyện ngắn: Thoát Khỏi Bóng

                                                    

            Vầng dương đã lên cao.

            Nắng đổ nung nóng đều cát đá. Cây lá cũng đã cùng nhau trở mình, lớn thì uốn éo, nhỏ thì oằn oại, thì thầm than vãn với nhau khi những hạt sương long lanh cuối cùng đã tan biến vào cõi không khôi khôi với sắc trạng mới mẻ...

            Lối mòn lởm chởm sỏi sạn trườn bò trên thế dốc thoai thoải dẫn lên tiểu am của Sư Chơn Thông đang niềm nở đón những bước chân dè dặt của cặp thiện nam tín nữ từ dưới phố thị lao xao xô bồ lên núi vãng cảnh bái tăng.

            Ba tiếng chuông liền nhau ngân lên giữa thời không im ắng như lời chào hân hoan đón khách lạ phương xa vừa đặt chân đến chốn quạnh hiu thường thường thanh tịnh của bậc hành giả xa rời thế gian ô trọc.

           Khách được mời uống ly lá vối nước xanh âm ấm để giải khát sau chặng đường vượt dốc lên non không ít chướng ngại.

          Từng cơn gió đi qua, mang theo điệu ru êm dịu và hương vị thanh khiết của đất trời luồn thốc vào ngôi tiểu am như muốn thổi cho mát mẻ, quat cho mau khô hai lưng áo ướt đẫm mồ hôi của hai ngươì khách lần đầu tiên có mặt ở chốn tĩnh lặng đơn sơ này…

          Chờ hai vị khách vừa đặt ly xuống chiếc bàn nhỏ chân thấp một gang tay sau khi hớp xong mấy ngụm trà lá vối, Sư mỉm cười, nhìn ngươi nam rồi nhìn sang người nữ, hỏi nhỏ nhẹ:

          “Hai vị là gì với nhau?”

          “Bạch thầy, là đạo hữu ạ!” Tín nữ mau miệng thưa.

           “À. Vậy ngọn gió nào trong bát phong đẩy đưa hai vị lên đến tận đây?”

          “Chúng con lên đây bái lễ thầy để cầu pháp ạ!” Thiện nam trịnh trọng đáp.

           Sư tủm tỉm, vừa rót châm nước lá vối vào ly cho khách, vừa ngâm:

“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế gian mịch bồ đề

Kháp như cầu thố giác!”

           “Bạch thầy, nghĩa là sao ạ?” Tín nữ trố mắt lên, hỏi ngay vì nôn nóng.

            “Đó là bài kệ của ngài Lục Tổ Huệ Năng, có nghĩa là…”Sư từ tốn “Phật pháp ở ngay trên thế gian, ta không thể rời thế gian mà giác ngộ, nếu rời thế gian để cầu tìm giác ngộ thì giống như đi tìm sừng thỏ. Thỏ làm gì có sừng, còn ở đây cũng đâu có nuôi thỏ mà tìm?”

             Dứt lời, Sư bật cười khanh khách. Cả hai người khách cũng cười theo, nhưng đều là cười gượng gạo, cười mà miệng méo xẹo, còn đôi mắt thì tràn đầy hoang mang  ngơ ngác. Thấy biết vậy, nên Sư hạ giọng xuống thật mềm mại dịu êm:

             “Phật pháp không phải là một thế giới khác, hay là một sản phẩm, một kỳ vật trong cảnh giới tách rời khỏi xã hội thế tục phàm trần. Hai vị ở ngay phố thị đông đúc chộn rộn thì đã được thuận duyên tiếp cận với pháp hằng ngày, vì dưới đó có biết bao nhiêu là bậc trí giả, cao tăng thạc đức sẽ chỉ giáo giải mở những khúc mắc rối răm cho mình. Vậy, chuyện chi phải nhọc công mất sức lặn lội lên tận núi cao đìu hiu, đến tận tịnh thất nhỏ bé này để cầu pháp?”

           Thiện nam chắp tay kính cẩn:

           “Dạ, đúng là con có được phước duyên kề cần, giao tiếp được với chư tăng ni giáo thọ, con đã tham vấn, cầu pháp, trình bày khúc mắc của con rõ ràng rồi, nhưng con vẫn chưa được thông thoáng đầu óc mê muội này. Chính thầy bổn sư của con chỉ đường cho con lên đến đây ạ!”

           Tín nữ chờ người bạn đồng hành vừa ngưng tiếng thì thưa ngay:

          “ Bạch thầy, trường hợp của con cũng tương tự như vậy đó ạ. Sư phụ của con cũng bày cho con nên tìm lên đến đây để nhờ thầy chỉ giáo… ”

          Sư lắc đầu cười:

          “Mấy vị dưới núi vậy là không chịu buông tha cho tôi rồi. Thôi được, cho hỏi, hai vị có băn khoăn khắc khoải tương tự nhau, nhưng bệnh có giống nhau không? Hay là mỗi người một bệnh?”

           Thiện nam sáng rỡ mặt mày, thưa:

          “Dạ, chính vì đồng bệnh tương lân mà chúng con mới hẹn đi cùng nhau lên đây cầu cứu thầy gia ân điểm đạo đó thầy!”

           Sư gục gặt:

          “Ô, cùng một bệnh thì toa thuốc sẽ giống nhau, vậy thì tiện lắm… Đã cất công lên đến đây rồi thì tôi không dám khước từ, tôi sẽ lắng nghe!”

           Hai người khách nhìn nhau hội ý. Sư buông một câu ngay lúc ấy:
           “Bệnh gì?”

           “Bạch thầy, con bị một cái bóng trùm che ạ!” Thiện nam đáp liền rõ to.

           “Dạ, con cũng bị trùm che bởi một cái bóng ạ!” Tín nữ nối tiếp lời thưa.

            Sư nhướng măt lên, nhìn từng người, rồi bật cười:

            “A ha… Bóng trùm, bóng che.”

            “Bạch thầy, đúng vậy ạ!” Hai vị khách đồng thanh.

             Sư thân mật, giọng pha chút hài hước:

             “Tưởng bị bóng đè chứ. Nếu bị bóng đè thì xin mời quay gót hạ sơn tìm bác sĩ, lương y mà xin thuốc an thần để có giấc ngủ ngon…”

            Rồi không đợi khách nói, Sư hỏi:

            “Bóng là bóng gì?Trùm che chỗ nào?”

            Thiện nam trải bày khúc mắc:

            “Con quy y Tam Bảo, đi nhiều chùa lễ Phật, thành tâm thành tín cúng dường, tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện… đã được gần mười năm qua, gặt hái được nhiều lợi lạc, tâm ý được giải thoát khỏi nhiều khổ đau lo lắng. Thế nhưng, có một điều đã làm con cứ cảm thấy vướng víu, không khó chịu cũng không dễ chịu, đó là đi đến đâu cũng thấy cái bóng của người cha quá cố của con bao trùm phủ che. Chư tôn đức trưởng lão, quý sư thầy sư cô, và cả những bậc huynh trưởng cao niên, đạo hữu thâm niên ở các tự viện chùa chiền mà con đến, con có mặt, con sinh hoạt… đều thương quý, cảm mến, dành nhiều ưu ái, đối xử có phần đặc biệt, và cứ gọi con là con trai của ông Tâm Thiện, chứ chẳng hề chịu gọi tục danh hay pháp danh của con, mặc dù ai cũng biết rõ. Cái bóng của cha con thiệt quá rộng lớn, con muốn thoát ra khỏi cái bóng đó. Con muốn mọi người nhìn thấy con là con, chứ đừng nhìn con mà chỉ thấy hình bóng cha của con.”

           Đến phiên tín nữ thổ lộ:

           “Con là Phật tử thuần thành, đi chùa thường xuyên, thuộc kinh thuộc chú làu làu, tham gia các hoạt động từ thiện, các khoa tu Phật thất, và nhất là hoạt động hăng say ở lĩnh vực văn hóa thông tin Phật giáo. Con làm thơ, chụp ảnh đưa tin bài, cộng tác với các báo, tạp chí, đặc san, nội san của giáo hội, và các tỉnh hội từ năm năm qua. Bút danh, bút hiệu của con trở nên quen thuộc do đã xuất hiện rất nhiều với mật độ dầy, đều đặn trên các trang truyền bá chánh pháp, nên con đã trở thành một hoằng pháp viên nhiệt thành. Vậy mà, chư tôn đức tăng ni, quý thầy cô, cũng như các bậc huynh trưởng, đạo hữu, thi hữu văn hữu cứ gọi con, kêu con là vợ của nhà văn Nguyên Y. Quý thầy trong các Ban Biên Tập cũng thường khen ngợi, tán thán những tác phẩm của vợ cư sĩ Nguyên Y, Con nhận ra cái bóng của chồng mình sao mà rộng lớn quá, phủ che hết mọi nẻo đường con đi qua, mọi nơi chốn con đặt chân đến. Con muốn thoát ra khỏi cái bóng khổng lồ đó, để hành cước, phụng đạo một cách độc lập, ung dung tự tại.”

            Nghe xong, Sư tủm tỉm cười, Rồi ba người ngồi im lặng. Mặt trời đã lên cao. Nắng hung bạo hơn. Và gió vẫn từng cơn đi qua ào ạt, mát rượi…

           Thật chậm rãi, Sư  Chơn Thông cầm lấy dùi, gõ vào chiếc chuông nhỏ màu đen xỉn, hai tiếng liền tiếp, ngưng ba giây rồi đến tiếng thứ ba, âm thanh của chuông đồng xứ Huế ngân vang theo gió mát đi vào thinh không mênh mông hun hút…

            Sư khoan thai mời hai vị khách bước ra ngoài trời đang nắng gắt, cùng bước lên đứng trên một mặt phẳng rộng chừng hai mét vuông của tảng đá lớn nằm phía bên hông trái tiểu am. Sư cúi nhìn và chỉ phía dưới chân, hỏi:

           “Đó có phải là bóng của chính mình không?”

           “Dạ phải ạ!” Thiện nam tín nữ đồng thanh đáp.

           “Nếu đứng đây cho đến khi mặt trời nằm trên đỉnh đầu, thì bóng nằm ngay sát, gọn gàng dưới chân ta, nên mới gọi là trưa đứng bóng. Bóng ngã hay đứng đều là bóng của hình tướng, của thân xác này. Có đúng vậy không?”

           “Bạch thầy, đúng vậy ạ!”

           “Chỉ khi hình tướng này, sắc tướng này, thân thể này, xác phàm này trả về cho tứ đại phong hỏa địa thủy, thì cái bóng này mới chịu tan biến mất đi, nên mới gọi cái chết với ngôn từ hoa mỹ là khuất bóng đó. Có phải là vậy không?”

           “Dạ đúng ạ!”

           Ba người vẫn còn đứng dang dưới nắng chát chúa, và đứng trên tảng đá đang hắt xông lên hơi nóng hầm hập, Sư thản nhiên:

            “Đây là bóng của ta hiển hiện từ thân xác của ta. Còn cái bóng mà hai vị thấy to đùng, khổng lồ đã trùm che phủ lấp mình chỉ là cái bóng của Tưởng. Vì cứ hoài Tưởng mà bóng đó cứ còn, đi đâu bóng cũng đi theo. Bóng đó to rộng cỡ nào, hình thù ra sao, thì chỉ có người đã Tưởng ra, hình dung, mường tượng ra nó đo đong thấy biết rõ mà thôi. Đó là bóng ảo. Ảo giữa cuộc đời vốn cũng là ảo. Ảo trong ảo. Không thật. Nhưng cũng không không thật!”

            Thiện nam tín nữ đứng lặng người như trời trồng, miệng há hốc, mắt sáng trưng lên. Sư vẫn bắt khách đứng phơi nắng, giọng trầm trầm rót nhè nhẹ êm ái:

            “Phước cho hai vị là được cái bóng trùm che phủ lấp mình là cái bóng mát, chứ mà bóng đó là bóng đen hắc ám, phủ chụp hơi nóng ác nghiệt thì coi như khốn khổ cực cùng, ngột ngạt oi bức sao mà chịu nổi, đương đầu nổi, sống nổi?”

           Không rủ nhau mà hai vị khách vội quỳ xuống, không thốt nên lời, chắp tay bái Sư liên hồi trong niềm xúc động. Sư đỡ khách đứng dậy, kết thúc luôn buổi pháp thoại:

           “Không cần phải thoát đi đâu hết. Vì thật ra mình đâu có bị phủ che lấp đè. Tự mình chui ra chui vào cái bóng tưởng tượng đó, chứ không ai bắt ép, không ai đùn đẩy, thúc giục mình chui vào hay thoát ra hết. Hãy tự ta bước đi, tự tại vô ngại, ta là ta, ta làm việc bằng tâm ý của ta, ta phụng đạo bằng tâm nguyện của ta… thì tự khắc chỉ còn ta với cái bóng của ta cho đến ngày khuất bóng trần gian thôi. Vậy đó!”

           Thiện nam tín nữ đều rơm rớm nước mắt, vâng dạ lí nhí trong miệng… Sư bỗng dưng trầm lặng, không nói gì nữa, khẽ khàng đưa tay ra hiệu mời vào lại trong tiểu am, rồi rót nước vối đầy ly mời khách uống.

           Ba tiếng chuông báo hết giờ tiếp khách ngân vang…

           Đã gần trưa đứng bóng.

          Sư Chơn Thông đứng nơi cửa tiểu am tiễn khách. Khi cặp thiện nam tín nữ đã bái lễ cáo từ, vừa quay lưng lại để xuống núi, giọng của Sư đuổi vọng theo:

           “Đừng tìm cách thoát. Nếu vẫn cứ thấy, thì hay hơn hết, tốt hơn hết là hãy nhập vào, hòa vào cái bóng đó mà sống thật, sống với Bi Trí Dũng, rồi có ngày sẽ không còn cái bóng của Ta hay của Ai Đó nữa! Nam mô Phật!”

        

          … Một năm trôi qua với biết bao xáo động của dòng đời vạn biến.

           Thiện nam lên lại trên núi, khum lưng cúi mình trước tiểu am, muốn báo tin vui cho Sư biết: “Bây giờ mọi người đều gọi con bằng tên tục, hoặc  pháp danh của con, chứ hết còn nghe gọi con trai của ông nào nữa!”

           Tín nữ đồng hành thì muốn thưa với ân sư: “Thời gian qua, ai cũng gọi con là nữ sĩ Diệu Hồng, chứ không còn gọi là vợ nhà văn, vợ cư sĩ nào nữa ạ!”

            Nhưng ngôi tiểu am đã cài then khép cửa, cỏ dại mọc đầy chung quanh, và dây leo rủ nhau bò vào phía bên trong đang tịch liêu vắng lặng. Sư không còn ở đó nữa. Hỏi thăm mấy nhà dân  ở gần khu vực dưới chân núi thì chỉ biết rằng Sư đã vắng bóng gấn cả năm qua rồi. Không ai biết Sư đi đâu, về đâu.

            Sư đã lưu lại trên ngọn núi vô danh một cái bóng lồng lộng bao trùm xuống cả hồng trần sơn hạ…

 

Tâm Không – Vĩnh Hữu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 5826)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3917)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4784)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15579)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3237)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11505)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18838)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6399)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3316)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
07/02/2015(Xem: 4776)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]