Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đâu Là Hạnh Phúc?

31/10/201910:10(Xem: 5614)
Đâu Là Hạnh Phúc?

duc phat thuyet phap
Đâu Là Hạnh Phúc?


Vào ngày 4/6/2018,  nhà vẽ kiểu túi xách Kate Spade/ Kate Valentine thành công với tài sản ước lượng 200 triệu Mỹ Kim, bà đã treo cổ tự tử ở trong phòng riêng, để lại một tuyệt mệnh thư cho con gái, trong khi chồng ở một phòng khác. Điều này cho thấy “Thành công và tăm tiếng chưa chắc đã ngăn ngừa được sự buồn nản, chán đời”  (Kate Spade's suicide is proof that money and fame can't deter depression).

            Đúng vậy, càng thành công, càng danh vọng càng lo. Lo vì ngày mai còn giữ được như vậy không? Ngày mai hàng bán ế thì sao? Rồi vài chục triệu đầu tư vào chứng khoán có thể mất tiêu trong vòng vài tiếng đồng hồ …cả trăm thứ lo, dồn dập tới khiến mất ăn, mất ngủ, nản chí rồi đâm chán đời và tự tử chết. Ôi tiền tài và danh vọng! Không có nó thì thèm khát. Có nó rồi lại chán đời. Tiền tài, danh vọng là đóa thơm ngát nhưng coi chừng trong mùi hương của nó có chất độc!

Trong khi đó, mới đây đài truyền hình Mỹ ở California có phỏng vấn một cô gái Mỹ Da Trắng khá xinh đẹp, khoảng 20 tuổi, hỏi lý do tại sao cô lại sống cuộc đời không nhà không cửa, chui rúc ở khu vô gia cư căng lều dài cả cây số ở Anaheim, Nam California như vậy? Cô trả lời rằng cô không muốn bị ràng buộc và lo lắng bởi tiền nhà, tiền bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cộ, cuộc sống không tự do khi phải đi làm…Dĩ nhiên ta bùi ngùi thương cảm cho một cuộc đời như vậy. Thế nhưng cô gái lại cảm thấy hạnh phúc và không mong muốn gì cả khi được hỏi cô nghĩ gì về tương lai. Hai hình ản thật tương phản. Một người trong tay có cả 200 triệu lại chán đời treo cổ chết. Còn một người không một đồng xu dính túi, lang thang không cửa không nhà lại thấy hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc ở đâu?

Chúng ta sẽ là một người “ngủ trên mây” nếu chúng ta nói rằng một một gia đình giàu có, hay quyền cao chức trọng, vợ chồng xứng đôi vừa lứa, con cái thành đạt…là cuộc sống ngụp lặn trong đau khổ.

Chúng ta cũng sẽ là một người thiếu hiểu biết nếu chúng ta nói rằng một người từ bỏ cả gia đình, vợ con, quyền cao chức trọng, gia tài bạc tỷ…để theo Phật sống đời dưa muối… là điên khùng, ngu dại.

Như thế hạnh phúc là sự lựa chọn của mỗi người. Nếu chúng ta ở trong cung vàng điện ngọc mà thấy hạnh phúc… thì đó là hạnh phúc.

Còn nếu chúng ta từ bỏ cung vàng điện ngọc để sống đời như một kẻ ăn mày như Đức Phật  mà thấy hạnh phúc…thì đó là hạnh phúc.

Từ những dẫn chứng kể trên chúng ta thấy vật chất không phải là điều kiện duy nhất hay ắt có để có một cuộc sống hạnh phúc. Mà hạnh phúc hay không tùy Tâm mình.

            Đạo Phật là một triết lý Trung Đạo. Phật Giáo không phủ định giá trị của vật chất nhưng cũng không khẳng định giá trị của vật chất. Đối với hàng Phật tử sơ cơ Đức Phật dạy về sự thống ngự của khổ đau (Khổ Đế), nguyên do của khổ đau (Tập Đế), sự diệt khổ (Diệt Đế) và phương pháp diệt khổ (Đạo Đế). Thế nhưng khi giảng dạy cho hàng đại bồ tát, hàng đại sĩ như Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thì Đức Phật lại nói, “Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Chân lý tối thượng của Phật trong Bát Nhã Tâm Kinh là: Khổ đau và hạnh phúc trong cuộc đời này chỉ là một. Tùy theo tâm mình mà nó là khổ đau hay bất hạnh. Lấy nước làm thí dụ: Nước cho ta nguồn sống, tắm gội tươi mát, du ngoạn trên sông hồ biển cả. Nhưng cũng chính nước đó sẽ là thảm họa vì nó có thể gây lụt lội, sóng thần và rất nhiều người chết đuối dưới nước. Chân lý “bất nhị” này cũng được Đức Phật giảng dạy cho các hàng Đại Bồ Tát trong Kinh Viên Giác khi Đức Phật nói rằng, “Chúng sinh (luân hồi, thống khổ) và quốc độ (an vui giải thoát) đều đồng một pháp tánh. Địa ngục, cung trời đều là Tịnh Độ”.

Từ  chân lý Phật “không hai” hay “bất nhị” này:

-Chúng ta chúc mừng những người quyền cao chức trọng mà sống trong  hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng những ông tỷ phú, triệu phú ngồi trên đống vàng đống bạc mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng những cô lấy được những ông chồng giàu sang, phú quý mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng các cậu lấy được các tài tử điện ảnh, ca sĩ, người mẫu, hoa hậu, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế…mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng tất cả những ai cố gắng vươn lên bằng trí tuệ hay bằng mồ hôi nước mắt để đạt được danh tiếng, tiền bạc và thấy đó là mục tiêu tối hậu đẹp nhất của cuộc đời.

-Chúng ta chúc mừng cho những ai đang hưởng lạc thú tuyệt vời với rượu chè, cờ bạc, xác thịt, cao lương mỹ vị, kể cả xì-ke ma túy…mà thấy hạnh phúc.


Thế nhưng chúng ta cũng thán phục và ngưỡng mộ những ai:

-Đã dám bỏ gia tài bạc tỷ để xuất gia sống đời dưa muối và thấy đây mới là hạnh phúc tuyệt vời.

-Những người dám từ bỏ, vợ đẹp con khôn, gia đình êm ấm để tìm một cuộc sống của kẻ ăn xin trong tăng đoàn để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình và tìm cách hóa độ chúng sinh, coi cả chúng sinh trong thế gian này như gia đình thân yêu.

-Chúng ta thương cảm và ngưỡng mộ ni cô là những cô gái đã cắt bỏ mái tóc xinh đẹp của mình, sống đời không son phấn, không mỹ phẩm, không xâm trổ để vẽ lại lông mày lông mi, không mỹ viện để sửa sang sắc đẹp, thân hình hầu hấp dẫn phái nam và rất hãnh diện vì vẻ đẹp của mình. Ngày nay “hồng nhan” không còn “đa truân” nữa. Mà sắc đẹp là vũ khí lợi hại để thăng tiến và vinh hoa trong cuộc đời. Những ni cô/ni sư này tìm thấy cái gì đây? Phải chăng chỉ là cuộc sống nội tâm bình an, thanh tịnh và hạnh phúc?

-Sau hết, chúng ta ngưỡng mộ và cảm thông cho những ai sống cảnh đời nghèo khó mà không đua chen, ghen ghét với đời, tâm tính thảo ngay, nghèo khó mà lương thiện. Những người này đã theo triết lý “An bần lạc đạo” thật đáng quý.

 Song những gì tôi nói trên đây chỉ là cố gắng rất vụng về để diễn giải chân lý Tối Thượng Thừa của Phật. Chân lý Tối Thượng Thừa này cũng chính là trí tuệ Bát Nhã và cũng là Viên Giác Thanh Tịnh.

Thế nhưng dù chúng ta có nói như thế nào đi nữa thì thế giới này vẫn cứ đầy rẫy khổ đau. Kẻ hưởng hạnh phúc chẳng bao nhiêu mà người rên xiết vì nỗi khồ phải kể hàng tỷ, hàng tỷ. Sẽ có một sự tranh cãi tới muôn ngàn năm nữa là: Hạnh phúc là tạo ra của cải vật chất và ban tặng của cải vật chất ấy cho mọi người. Hay hạnh phúc là “tri túc thiểu dụng”, giảm bớt những ham muốn của con người? Ngày nay một số rất đông đang đi theo con đường thứ nhất và một số rất ít đi theo con đường thứ hai.

 

Việc treo ấn từ quan, tìm nơi thâm sơn cùng cốc để xa lánh đời, ngao du sơn thủy, ngâm thơ vịnh nguyệt của bao danh sĩ, tể quan đời Đường …không phải không có cái lý của họ. Nhân loại tiến từ thời ăn lông ở lỗ tới du lịch Hỏa Tinh và Mặt Trăng nhưng vẫn chưa tìm ra câu trả lời, “Đâu là hạnh phúc? Và sống thế nào là hạnh phúc?”

Chúng ta không cực đoan để khích lệ một cuộc sống “yếm thế” như các danh sĩ đời Đường. Thế nhưng muốn có cuộc sống hạnh phúc mà không treo cổ hay bắn vào đầu tự sát…chúng ta phải thấy vạn vật này vốn Vô Thường- có đó rồi mất đó: Cam kết rồi bội phản, hứa rồi bội hứa, yêu nhau kết hôn rồi biến thành oan gia trái chủ, bạn biến thành thù, sắc đẹp mĩ miều hấp dẫn ngày hôm nay, ba mươi năm sau biến thành da mồi, tóc bạc, lời yêu ngày hôm nay vài năm nữa có thể biến thành lời đay nghiến.

Do đó khi chúng ta có danh vọng, tiền bạc, tình yêu thì phải hiểu rằng nó cũng như “gió thoảng mây bay”, có đó, mất đó, được đó mất đó…cho nên phải chuẩn bị cho ngày trắng tay hoặc quyền lực mất hết, hoặc người yêu phản bội. Sống như thế là sống theo đạo, tức ung dung tự tại, tức trong khổ đau mà ta có hạnh phúc.

Cuối cùng xin mọi người hãy nhớ “Hạnh phúc và khổ đau chỉ là một”.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 30/10/2019)



 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6798)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4978)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10246)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3732)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4949)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5136)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 8096)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4335)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13688)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3753)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]