Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bố Thí Đầu (truyện thơ)

03/05/201909:15(Xem: 5183)
Bố Thí Đầu (truyện thơ)


Buddha_15

BỐ THÍ ĐẦU


Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly,
Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà.
Có rừng cổ thụ ta-la,
Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng.
Tay Phật cầm nhánh lan rừng
Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan!
Đạo ta như khói chiên đàn,
Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.
Gỗ tàn cho khói trầm lên,
Thế gian gieo một thiện duyên cũng là.
Thân này nào khác chi hoa,
Đạo như cây quý nở ra bốn mùa.
Hương trời giữa khói sương đưa,
Hoa kia rồi cũng một mùa như hoa.
Đây xe pháp giữa Ta-bà,
Giờ sao mưa gió nghe ra rã rời.
Dù Như Lai trụ muôn đời
Hay là một kiếp diệu vời khác chi.”
A-nan chẳng hiểu ý gì,
Phật truyền đến gốc cây kia trầm từ.
Bấy giờ trong cõi không hư,
Mây đen cuồn cuộn tựa như biển trùng.
Hiện ra ma vương Ba-tuần,
Dưới hoa quì lạy muôn phần kính tôn,
Rồi thưa “trong cõi bụi vàng,
Thế tôn đã độ vô vàn nhân thiên.
Bến mê đã lặng sóng phiền,
Sen thơm nở giữa khởi duyên trùng trùng.
Dù cho vô tận vô cùng,
Đạo ngài như vẳng hồng chung tiếng vàng.
Giờ xin thỉnh nhập Niết-bàn.”
Phật đưa một nắm bụi tàn trên tay.
Bụi này, hay cõi đất đây,
Đâu nhiều, đâu ít hỏi ngay Ba-tuần.
Ma rằng “chút gợn phù vân,
Cõi này đất hẳn muôn phần nhiều hơn.”
Nhẹ nhàng Phật nối lời luôn:
6.200.  “Vậy người mê muội trong cơn khác nào.
Luân hồi khổ ải lao đao,
Trôi lăn bể dục còn bao nhiêu người.”
Ma rằng “thiện ác mây trôi,
Ngộ mê như ngọn sóng dời biển đêm.”
Phật cười nở nụ nhiệm huyền,
Khen ma “ngươi chứng đạo hiền mốt mai.
Còn ta ba tháng nữa thôi,
Niết-bàn sẽ nhập như lời ngươi mong.”
Tạ lui, chúa quỉ ghi lòng
Lời ban di chúc, trần hồng khó hay.
A-nan thiếp ngủ giấc ngày,
Nằm mơ thấy một bóng cây rợp trời.
Trái hoa năm sắc tuyệt vời,
Bỗng dưng cây hóa mặt trời chói chang.
Mười phương gội ánh mây vàng,
Rừng cây nội cỏ nở ngàn hoa thơm.
A-nan tỉnh giấc mộng vương,
Nghĩ rằng bóng mát y nương bấy ngày.
Rồi ra cây hóa mặt trời,
Phương phương hoa cỏ hết nơi an bình.
Là khi mình phải cậy mình,
Đuốc hồng soi giữa vô minh bóng dày.
Thôi, ta sắp chẳng còn Thầy,
Dựa nương đức độ như ngày xa xưa.
Nghĩ rồi nước mắt như mưa,
Vội vàng tìm đến trình thưa Phật từ
Những điều vừa thấy trong mơ,
Khiến lòng một tín muời ngờ lắm thay.
Phật rằng “sinh, diệt xưa nay,
Ba tuần trăng nữa đến ngày đó thôi.”
Nghe xong Tăng chúng rụng rời,
Bóng cây đã hóa mặt trời tự tâm.
Phật khuyên “pháp giới vô thường,
Như Lai đã chỉ con đường vào ra.
Có ta hay chẳng có ta,
Tự tâm thanh tịnh vẫn là chốn nương.
Giới trai là của tư lương,
Trí bi là cửa chân thường tiến tu.
Vượt trăm ải mộng Diêm-phù,
Bừng soi trí huệ cho dù không ta.
Dù ta thường trụ Ta-bà,
Mải mê tham chấp cũng là như không.
Việc nên ta đã làm xong,
Lời nên ta cũng tận lòng mở khai.
Chân tâm thường trụ Như Lai,
Không đi, không lại, không ngoài, không trong.”
Ngài Xá-lợi-phất than rằng
“Ôi thôi! Mắt sáng thường hằng thế gian.
Bây giờ ngài nhập Niết-bàn,
6.250.  Chúng sinh như thể con đàn cậy ai.
Con xin diệt trước Như Lai,
Chẳng đành tâm thấy bóng ngài hóa thân.”
Nói rồi quanh Phật ba lần,
Quì nâng chén ngọc để lên đỉnh đầu.
Trang nghiêm từ biệt giây lâu,
Trở ra hạc nội rầu rầu cỏ xanh.
Ông tìm về La-duyệt thành,
Chốn quê, nở đóa hoa lành nơi đây.
Tin ông nhập diệt lan ngay,
Vua A-xà-thế lòng đầy xót xa.
Vội vàng lên thẳng loan xa
Cùng đoàn hộ giá tới nhà tranh quê.
Vua than “ngài nỡ vội về,
Lấy ai đem đạo Bồ-đề hóa khai!”
Rồi vua lệ nóng tuôn dài,
Khiến Xá-lợi-phất thấy bùi ngùi thương.
Ông khuyên “muôn vật vô thường,
Sớm làm mây nổi chiều vương mưa dài,
Xá gì sinh tử cõi đời,
Ngại gì một nắm xương dời dưới khe.
Thiện duyên vun cội Bồ-đề,
Kiếp như cát nổi đi về độ tha.
Thiện căn người lại gặp ta,
Pháp duyên hóa độ Ta-bà chuyển mê.”
Ngoài kia thiện tín dồn về,
Tin thầy sắp diệt não nề lòng ai.
Than rằng “ngọc sáng trời người,
Ôi gươm lửa cắt ba đời vô minh.
Ôi sen nở giữa đầm xanh,
Ôi chim giục sáng trên cành đông ba.
Nhờ thầy đại chúng an hòa
Bấy lâu, giờ lại xót xa tiễn người.
Đuốc trầm nghi ngút ùn hơi,
Trăng đêm man mác mây dời tàn sao.
Ông nhập thiền giữa đài cao,
Nội xa cỏ quý rì rào lá nghiêng.
Người lên từng cõi trời thiền,
Như chim tiên hạc qua miền tuyết hoa.
Trên cao mây hiện sắc tòa.
Sao đan tàn ngọc, khánh hòa gió bay.
Lời tiên vọng giữa trời mây,
Ca tụng hiền giả đức dày trí cao.
Ứng cơ chuyển tiếp pháp mầu,
Diệu thanh như thế suối mau mau dồn.
Biện tài như nước trời tuôn,
Giới như đại tướng phá cường địch mê.
Theo Như Lai mở Bồ-đề,
Pháp luân như ngọc pha lê tuyệt vời.
Chư tiên tán tụng dứt lời,
6.300.  Nhục thân La-hán vẫn ngồi an nhiên.
Giác linh thăng hóa cõi trên,
Trong khi đệ tử dưới miền nhớ thương.
Đây yên lặng, nụ cười buồn,
Kia ngồi than khóc bên đường như mưa.
Lại nhiều kẻ đứng trầm tư,
Tay dâng hoa trắng tựa bờ xuân mai.
Thôn trong cho đến thành ngoài,
Chim lồng cá chậu được người phóng sinh.
Phương đông vừa dựng bình minh,
Một làn mây đỏ hóa hình cỗ xe.
Từ xa đem lửa bay về
Kết thành tháp lửa bốn bề khói thơm.
Tiếng kinh thơ tụng bên đường,
Hoa như mưa lấp than hường dần tan.
Hiện ra xá-lợi hồng vàng,
Tựa kho ngọc báu bên đàng tỏa soi.
Lại nghe trên đỉnh từng trời,
Tiếng đàn ảo diệu chen lời hát ca.
Giây lâu, trời lặng như xưa,
Vua A-xà-thế bấy giờ bình thân.
Nhặt, chia xá-lợi nhiều phần,
Truyền đem xây cất mấy lần tháp cao.
Lại truyền định những nơi nào,
Dựng bia, khắc chữ, chép sao công người.
Thả tù, bố thí nơi nơi,
Gọi là tưởng niệm cuộc đời thánh Tăng.
Chuyện này do một khách thương,
Đem về bạch Phật tại rừng ta-la.
A-nan khi đó nghe qua,
Nhớ thương hiền hữu lệ sa vắn dài.
Thế tôn trông thấy mỉm cười,
Giơ tay vẫy đến bên người bảo ban
Rằng “thánh Tăng nhập Niết-bàn,
Pháp thân còn mãi vô vàn thiên thu.
Dù cho hoa cỏ Diêm-phù,
Dù cho khe suối sương mù gió mây.
Pháp thân còn đó còn đây,
Giới hương giải thoát tròn đầy nguyệt trong.
Nghìn xưa nơi cõi bụi hồng,
Phất từng diệt trước chẳng lòng nhìn ta.”
A-nan vội chắp tay hoa
Dưới thềm thỉnh pháp duyên là trước sau.
Phật kể “xưa kiếp Diêm châu,
Nguyệt Quang vua nọ đức giàu trí bi.
Lúa thơm muôn dặm xanh rì,
Thành cung một cõi lưu ly ngọc ngà.
Nọ lầu vàng rực mây tà,
Kia đền hồng ngọc chói lòa nắng mai.
Muôn muôn tụ lạc an vui,
6.350.  Sông biêng biếc lụa vọng lời đò ca.
Một hôm vua ngự thưởng hoa,
Nghĩ rằng đời khác như là xuân thu.
Nghiệp xưa tích đức hiền tu,
Kiếp này quả báo cho dù tốt tươi.
Phúc duyên cảm đến người người,
Núi sông thành quách ngời ngời vàng châu.
Bây giờ cầu chút duyên sau,
Mở kho bố thí muôn lầu gấm hoa.
Dù cho muôn cõi muôn nhà,
Dù cho khắp chốn Ta-bà ngại chi.
Tin vua bố thí loan đi,
Nhân dân khắp cõi tìm về tận nơi.
Sớm hôm lần lượt bao người,
Xin tiền, xin vật, như lời hứa ban.
Tiếng truyền oai đức Nguyệt Quang,
Khiến cho muôn nước lân bang nể vì.
Phương Tây có vị vua kia,
Ghét ghen là thói so bì xưa nay.
Càng nghe lòng giận càng đầy,
Liền bàn mật với nhóm bầy tôi thân.
Hỏi ai chước quỉ mưu thần,
Hạ Nguyệt Quang được một lần thị oai.
Có người giáo sĩ mỉm cười
Nói “xin lấy hẳn đầu người lập công.”
Vua nghe như mở tấm lòng,
Hẹn cho hai tháng phải xong việc này.
Việc thành hứa gả con đây,
Chung nhau quyền lợi đủ đầy trị dân.
Vui mừng, giáo sĩ lui chân,
Về non cầu đảo quỉ thần giúp tay.
Hành trang sửa soạn đó đây,
Voi chăng màn gấm đợi ngày kéo sang.
Bấy giờ vua nước Nguyệt Quang,
Nào là chớp giật nào hàng tinh rơi.
Khói sương ùn mấy ngày trời,
Rồi là sao chổi sáng ngời hiện ra.
Quạ đen bay lại bay qua,
Lại thêm dã thú gầm như động rừng.
Hết dân nằm mộng bất tường,
Trống rồng bị thủng, lọng vàng ngả nghiêng.
Lại vua trong giấc nửa đêm,
Nghe như xào xạc ngoài thềm lá rơi.
Trông ra: quỉ xám đương cười,
Tay cầm vương miện trỏ nơi ngai rồng.
Điềm chi, khiến mộng buồn lòng,
Bách quan nghe chuyện vô cùng xốn xang.
Đến hôm, trước cửa thành vàng,
Có người giáo sĩ lân bang xin vào
Tâu “ngài phát nguyện thanh cao,
6.400.  Đạo tâm tỏa sáng khác nào thái dương.
Nên tôi từ chốn Tây phương,
Vượt trăm dặm núi đỉnh sương hướng về.
Nghe ngài theo hạnh Bồ-đề,
Bao phen bố thí chẳng hề tiếc đâu.
Nhưng dù ban phát ngọc châu,
Cũng là vật dụng phải đâu khác người.
Dám cho đến máu thịt rơi,
Dám đem mạng sống cứu đời mới cao.
Nên tôi chẳng ngại xin vào
Giúp vua tự thắng, nêu cao gương hiền.
Nhưng vì rất khó, cho nên
Ngài có nhận trước mới xin giãi bày.”
Đức vua hoan hỉ chịu ngay,
Dù quên thân mạng lòng này ngại đâu.
Nghe xong đạo sĩ khấu đầu,
Dưới thềm khúm núm thêm câu dối lừa:
“Mẹ tôi nằm bệnh từ xưa,
Quỉ ma hành hạ thân già đớn đau.
Pháp sư truyền dạy đã lâu,
Bệnh này chữa phải có đầu đế vương.
Như ngài phúc tuệ đôi đường,
Thì bộ óc chính là phương thuốc thần.
Nói ra, thực rất ngại ngần,
Dẫu rằng đã được minh quân rộng lòng.
Phần tôi kính trọng ngai rồng,
Thay trời trị nước vô cùng lớn lao.
Trần gian dễ thấy ai nào,
Đã ngôi báu, lại đức cao như ngài.
Nhưng phần xót mẫu thân tôi,
Tuổi xuân đã chịu suốt đời gian lao.
Đến già lại bệnh khổ sao,
Nghe mẹ rên xiết như bào lòng con.
Nên liền xin lượng núi non,
Bằng không, xin chịu nát mòn cũng cam.”
Vua rằng “ngươi cứ yên tâm,
Đã lời hứa trước, tấm thân chẳng nề.
Đầu ta, ngươi sẽ đem về
Chữa bệnh ma quỉ, trọn bề dưỡng sinh.”
Triều thần sửng sốt khiếp kinh:
Vua bố thí cả mạng mình nữa sao!
Người băng lên chín bệ cao:
Xin ngài ở lại ngôi cao dân nhờ.
Người thì lý luận trình thưa,
Đem tài hùng biện khuyên vua đủ điều.
Nhưng lòng son vẫn không xiêu:
“Các khanh thôi chớ buồn nhiều vì ta.
Phải đem đức trải gần xa,
Không còn vị kỷ mới là độ sinh.
Nhân gian cần có gương lành,
Ta xin treo để thức tình người sau.
Thân này, vì muốn giữ lâu,
Thì trăm năm cũng qua cầu mà thôi.
Điện vàng đừng sợ không ngai,
Con ta lại sẽ nối ngôi trị vì.
Có chư khanh đó, lo gì,
Việc dân việc nước mọi bề vẫn yên.”
Đại thần có vị tiến lên
Rầu rầu đứng trước vua hiền lạy thưa:
“Thánh hoàng, hạnh nguyện độ tha,
Cắt đầu bố thí để mà khuyến dân.
Xin tha lỗi kẻ tôi thần
Chẳng đành ngó thấy mình rồng máu hoen.”
Nói rồi tự móc trái tim,
Bàn tay máu nhuộm dâng lên ngai vàng.
Trăm quan xiết đỗi kinh hoàng,
Dẫu là gan sắt cũng hàng lệ rơi.
Còn vua, di chúc hẳn hoi,
Lại thêm căn dặn đủ lời trước sau.
Rồi cầm gươm tự cắt đầu
Trao cho giáo sĩ vẫn chầu một bên.
Người này vội vã lên yên
Trốn đi như thể một tên tội tù.
Bấy giờ khắp cõi Diêm-phù,
Đất bằng chuyển động vụt vù gió bay.
Thiên cung mấy đỉnh từng trời,
Kim thân Bồ-tát rạng ngời chiếu soi.
Vội vàng thiên chúng nơi nơi
Trải hoa mười cõi dâng người đại bi.
Mưa thành cát ngọc lưu ly,
Gió thành diệu nhạc muôn vì sao nghiêng.
Hương trầm từ đất bốc lên,
Chim tha mây trải khắp miền hót ca.
Thần dân trồng mấy dặm hoa,
Nguyện cho thần thức vua hòa đại tâm.
Hóa siêu trong cõi mê lầm,
Như hoa nở giữa sơn lâm mấy trùng.
Trong khi giáo sĩ băng rừng,
Đem đầu vua, trốn trên lưng ngựa dài.
Phóng đi nào biết đêm ngày,
Lạ sao đầu nọ tỏa hoài hương thơm.
Khi về tới được biên cương,
Kiệu son sẵn đợi thẳng đường tiến kinh.
Tin loan khắp chốn khắp thành,
Khiến dân nước đó giật mình ngẩn ngơ.
Bấy giờ ở chốn cung vua,
Mừng như thắng trận treo cờ kết bông.
Dựng đài cao giữa chợ đông
Để bêu thủ cấp cho công chúng nhìn.
Sớm mai, vừa nhạt bóng đêm,
6.500.  Dân từ khắp nước đã chen nhau về.
Nóng xem cho được đầu kia,
Của người hiền đức bốn bề tiếng vang.
Trên đài cao, dưới nắng vàng,
Hộp sơn vừa mở thoảng làn hương bay.
Nhưng sao thật lạ lùng thay,
Đầu vừa khỏi hộp, hóa ngay sen hường.
Hào quang chiếu rực mười phương,
Gió thơm man mác, mây buông tàn đào.
Lại nghe đàn sáo ngọt ngào,
Âm thanh nhẹ tự trời cao thoảng về.
Người người khai ngộ lìa mê,
Chắp tay cung kính, bốn bề lâng lâng.
Nguyệt Quang xưa bực minh quân,
Đức dày nhiều kiếp tiền thân góp thành.
Vị quan tự móc tim mình
Là Xá-lợi-phất tu hành kiếp nay.
Suốt trong sáu cõi đổi thay,
Bao lần thị hiện đủ đầy cúng ta.
Dấu chân in khắp Ta-bà,
Bây giờ rũ nắm trần sa giữa dòng.
Như chim thần vút qua sông,
Tiếng kêu khiến nở vừng hồng đỉnh xa.”
Thuyết xong Phật dạo đường hoa,
Bước yên dưới liễu la đà nắng bay.


Phạm Thiên Thư
Thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu)
Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.
***

Nguồn: Hội hoa đàm
Cơ sở Văn Chương ấn hành, mùa Hạ năm Quý Sửu 1973, Sài Gòn, Việt Nam.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/06/2020(Xem: 10352)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
02/06/2020(Xem: 10348)
THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HẠNH PHÚC (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ TỬ SINH, TỰ TÌNH KHÚC (thơ Ns. Hạnh Đạt), trang 13 ¨ TÀI SẢN SẼ MẤT, TẠO PHƯỚC THÌ CÒN (Quảng Tánh), trang 14 ¨ TÂM THƯ CẦU NGUYỆN BỆNH DỊCH CORONA VŨ HÁN CHẤM DỨT (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ CHÚC NGUYỆN THƯ PHẬT ĐẢN 2564 (TK. Thích Tuệ Sỹ), trang 16 ¨ THỌ GIỚI (HT. Thích Huệ Hưng), trang 18 ¨ SAU MÙA GIÓ LOẠN (thơ Mặc Phương Tử), trang 23 ¨ CHÙA CỔ THIÊN TỨ... (Tâm Không Vĩnh Hữu), trang 24
31/05/2020(Xem: 4533)
-Các con biết đây là gì không? Đây là chiếc Gối Gỗ của Sư Ông. Bốn huynh đệ chúng tôi trố mắt nhìn nhau, lần đầu tiên trong đời mới thấy chiếc gối gỗ. Thì ra, món đồ Sư Phụ để trên bàn thờ mấy năm qua được bọc vải vàng là cái Gối Gỗ của Sư Ông, chúng tôi nhiều lần thắc mắc nhưng không ai biết được đấy là gì, cũng không dám hỏi Sư Phụ. Tôi còn nhớ như in buổi chiều khi hay tin Sư Ông viên tịch, Thầy trò đang ngoài ruộng lúa chuẩn bị cho vụ mùa. Thầy vội vã về chùa để ra quê cho kịp chuyến xe tối. Hạnh Trí nhanh nhẹn chuẩn bị cho Thầy bộ Y, mấy bộ quần áo và vài gói mì lá Bồ Đề bỏ vào trong cái túi đãi đã bạc màu. Hạnh Tú thì tranh thủ dắt chiếc xe đạp ra ngoài trong tư thế đưa Thầy ra quốc lộ. Hạnh Lưu nhanh tay lo cho Thầy mấy trái bắp luộc để lót dạ trên đường. Thầy đi chỉ dặn dò mấy con ở chùa nhớ công phu bái sám đều đặn, công việc nặng thì nhờ quý bác Phật tử giúp giùm.
29/05/2020(Xem: 3681)
Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh… - Tâm hả con, vào nhanh đi. Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo: - Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!
27/05/2020(Xem: 5401)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
10/05/2020(Xem: 4184)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona. Thí chủ nào muốn cúng dường gạo sữa, hoa quả chỉ dám nhấn chuông rồi lặng lẽ để phẩm vật trước cửa Chùa. Không thể nào thực hiện được hạnh nguyện cúng dường ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhưng tấm lòng nhớ đến Tam Bảo như thế cũng đáng được tán thán! Chùa trở nên sống động nhờ ý tưởng độc đáo của Sư Bà Linh Thứu, phải làm một cái gì hữu ích cho xứ sở mình đang sống để trả ơn cho họ trong cơn đại dịch. Sư Bà huy động tất cả các Phật tử có tay nghề may vá, kêu gọi họ may khẩu trang đem đến Chùa quyên tặng và các Sư Cô của Chùa cũng phải ngày đêm may cắt làm sao cho đủ số. Ít nhất phải đến con số 3000 chiếc khẩu trang ân tình Sư Bà mới dám triệu Ngoại Vụ của Chùa đi làm việc. Sư Bà muốn mời một vị khách quý của Chùa đến nhận món quà ấy, ông Thị Trưởng của quận Spandau nơi chùa Linh Thứu sinh hoạt.
01/05/2020(Xem: 12494)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
30/04/2020(Xem: 4888)
Hãy mau mau buông bỏ mọi mê lầm ngay tại đây và ngay bây giờ. Xin giới thiệu với độc giả hoàn cảnh ra đời của bài này. Tác giả là nhân viên làm việc trong một nhà tù thuộc tiểu bang Victoria. Trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19, mọi người dân đều phải chấp hành lệnh của chính phủ tiểu bang và liên bang để giữ gìn an toàn sức khỏe cho cộng đồng. Không được tụ tập trên mười người và phải giữ giản cách xã hội (cách nhau hơn một sải tay). Vì phải làm lễ cầu siêu cho một tù nhân vừa qua đời sau hơn hai năm mang nhiều thứ bệnh trong hoàn cảnh đặc biệt này cho nên chúng tôi chọn cái đề tựa như trên.
27/04/2020(Xem: 3338)
Ra khỏi bến xe Vinh, xe rẽ về ngả Thanh Chương. Hàng cây hai bên đường như lui dần, biến vào trong đám bụi đất đỏ phía sau xe. Sáng sớm trời còn mờ sương. Hơi lạnh từ các hốc núi tỏa ra lãng đãng tan vào không khí. Gió mát dịu, tôi khoan khoái ngả người vào thành ghế phía sau lơ đãng nhìn những đám mây xám lơ lửng trong bầu trời âm u. Dường như có một chút ánh sáng ửng hồng ở phương xa, bên kia ngọn đồi trước mặt. Xe tiến tới. Ánh sáng như thật gần rồi sáng bẵng. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng. Người trong xe như trở mình sau một cơn ngáy ngủ. Họ lấm lét nhìn tôi soi mói như nhìn một quái vật từ cung trăng rớt xuống. Chắc là tôi lạ lắm. Tôi nghĩ vậy. Mái tóc ngắn, chiếc áo bà ba bó sát thân hình, chiếc quần đen hàng vải ú, nhưng dáng người ốm ốm, cao cao, tôi không giấu được tôi là người miền Nam vừa đến. - Chị ra Bắc thăm bà con đấy hẳn? Người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi tôi. Tôi quay lại mỉm cười rồi gật đầu dạ nhỏ.
27/04/2020(Xem: 2874)
Năm tôi mười hai tuổi, tôi đã biết mộng mơ. Nhưng tôi không mơ công tử đẹp trai con nhà giàu học giỏi hay các chàng bạch diện thư sinh mặt hoa da phấn mà tôi mơ hình ảnh thiếu nữ áo dài xanh (màu xanh nước biển), có đôi găng tay trắng, ở cổ áo gắn hai đầu rồng nho nhỏ, xinh xinh, huy hiệu của tiếp viên phi hành hàng không Air Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]