Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hương Xưa

10/10/201820:35(Xem: 5611)
Hương Xưa

 

 hoaphuong_cautrangtienhue

 

Hương Xưa

  Nguyên Hạnh  HTD

 

     Trời đã vào thu rồi mà nắng vẫn còn ấm, những đợt nắng trong veo như mật ong rải ánh vàng long lanh trên ngàn cây nội cỏ. Tôi lại nhớ những ngày thu ở Huế, dù chỉ là mùa thu mà trời đầy mưa bụi bay bay và gió lạnh run rẩy khi đạp xe qua cầu Tràng Tiền thời đi học. Nỗi nhớ như sợi tơ trời lãng đãng, vật vờ bay lượn giữa hư vô chợt sà xuống vướng mắc nơi góc vườn kỷ niệm.

     Nhìn các em bé học sinh tung tăng đến trường nhân ngày khai giảng, lòng tôi lại càng ngậm ngùi hơn, muốn ngược dòng thời gian đưa hồn về quãng đời hoa bướm để tìm lại một thoáng hương xưa bên Thầy Cô và bạn bè thân yêu ngày nào.

 

     Ngày đi thi vào Đệ Thất trường Đồng Khánh, tôi đã được Ba tôi cho đi xe kéo. Sáng sớm tinh sương, trong khi mọi người còn yên giấc, tôi đã ngồi lắc lư trên chiếc xe với bao nỗi hồi hộp trong lòng. Một con bé nhà quê tay cầm chặt bút mực run rẩy bước vào phòng thi với vẻ mặt ngơ ngác, trông thật tội nghiệp. Nhưng rồi bao lo sợ cũng đã trôi qua, ngày xem kết quả tôi đã chạy bộ từ Thành Nội qua trường rồi chạy về nhà mà không biết mệt. Tôi không quên được giây phút cảm động khi vừa thở vừa báo tin cho Ba tôi hay là tôi đã trúng tuyển, Ba tôi đã xoa đầu và ôm tôi vào lòng với bao trìu mến thương yêu.

 

     Tôi đã trải qua 4 năm Trung học ở trường Đồng Khánh và 3 năm ở trường Khải Định (1948 - 1955). Biết bao kỷ niệm vui buồn đã xảy ra và bây giờ cho dù hằng chục năm đã trôi qua nhưng mỗi lần nhớ đến vẫn còn cảm thấy bồi hồi trong lòng. Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ càng thêm rạng ngời trong tâm tưởng.

 

     Bốn năm ở Đồng Khánh, từ buổi ban đầu còn rụt rè, e sợ, tập tễnh bước vào trường nhìn các chị lớn tuổi hơn mình với bao ngưỡng mộ, rồi dần dần tôi cũng đã hội nhập được vào môi trường tinh nghịch của tuổi học trò: buổi trưa cũng đã biết chui xuống hộc bàn giáo sư trốn các bà Giám thị để khỏi bị lùa lên lầu khóa kín cửa lại; trèo qua cửa sổ để vào nhà thương điên trêu ghẹo họ dù rằng trong lòng sợ muốn chết, hai chân chỉ chực chạy thoát trở ra. Buồn buồn lại xuống bến đò Thừa Phủ leo lên đò qua bên kia sông rồi trở về. Vui nhất là những buổi trưa ở lại ăn cơm tại trường, món nào không ngon cứ lấy đũa khua om sòm làm reo. Đáng mê nhất là món đậu hủ nóng hổi của chị Châu, xuống nhà chị Cách ăn bánh bèo, bánh nậm và mùa đông lại khoái ăn hột phượng nấu của bà Cai Đệ.

 

     Từ Đệ Thất đến Đệ Tứ, tôi đã học Toán với các thầy Hồ Văn Lê, thầy Bùi Tấn, thầy Lê Nguyên Diệm.

     Thầy Hồ Văn Lê thì quá hiền lành và dễ thương; tôi sợ nhất giờ của thầy Bùi Tấn. Thầy chấm tập vở quá kỹ, phần nào không bằng lòng là trang đó bị xé ngay. Giữa lớp học im phăng phắc vì sợ, tiếng xé giấy như xé nát tâm can của lũ học trò chúng tôi. Tôi học không đến nỗi tệ, vậy mà vì quá sợ Thầy, tôi đã về khóc với Ba tôi xin tìm cho tôi một người dạy kèm môn Toán.

 

     Lên Đệ Tứ, tôi mừng vì đã được học Toán với thầy Lê Nguyên Diệm nhưng đồng thời giờ của thầy tôi cũng hay bị la vì sao mỗi lần Thầy gọi, tôi không chịu đứng dậy liền (Con xin lỗi Thầy!). Thì ra con mắt Thầy bị lé nên mỗi lần Thầy nhìn, tôi cứ tưởng không phải gọi tôi.

     Năm Đệ Tứ là năm đã biết nếm mùi gian lao khổ cực, thức khuya dậy sớm, phải học để thi lấy bằng Diplôme (Trung học phổ thông). Tuy vậy chúng tôi cũng không bỏ được những trò chơi, mê nhất vẫn là „U mọi“ hồi hộp gay cấn là lúc chạy qua cứu bạn về, áo dài bị xé rách cả vạt, về nhà sợ quá phải giấu vào góc cửa.

     Ôi! Sao những tháng ngày đó thật ngây thơ và dễ thương vô cùng! Đôi khi nhớ những ngày tháng cũ, tôi thao thức muốn thoát hồn bay trở về thăm lại mái trường xưa, bơi lội thỏa thích trên dòng sông cũ, giữa những hình ảnh thân yêu với bao kỷ niệm êm đềm của thời con gái „tóc thề thả gió lê thê“.

     Bốn năm êm đềm trôi qua nhưng cũng có những giai đoạn sôi sục vì thời cuộc, truyền đơn bay tứ tung lựu đạn nổ ở sân trường, vẫn có những giờ học thật căng thẳng vì tình hình.

     Tôi thương thầy Trần Điền hay lưu tâm đến việc học hành và thường hay liên lạc với Ba tôi để nhắc nhở về tôi; tôi mê đôi môi mọng đỏ của cô Diệu Liễu với đôi bàn tay ngọc ngà; say sưa với giờ Quốc văn của thầy Nguyễn Văn Đãi với lối giảng bài thao thao bất tuyệt của Thầy nhưng cũng ngán nhất khi phải vào thi vấn đáp môn Địa với thầy Cao Hữu Triêm vì Thầy hay bắt vẽ bản đồ mà tôi thì lại quá dốt về môn này!

 

     Sau kỳ thi Diplôme, tôi qua học lớp Đệ Tam trường Khải Định, một ngày trọng đại không kém trong đời vì lần đầu tiên học chung với con trai và còn quan trọng hơn nữa vì trường mới tiếp thu của chính phủ Pháp. Tuy nhiên các lớp học đã phơi bày một cảnh tượng hoang tàn vì chiến tranh, những vết đạn loang lổ trên hành lang, những mảnh tường vôi tróc lở, rêu phong phủ kín làm phai màu trường cũ. Sân trường hoang vắng đìu hiu, cây cỏ tan nát, hầm hố chông gai nằm chơ vơ đây đó!

     Ngày đầu tiên thầy Hiệu Trưởng đã dặn dò kỹ lưỡng, cấm chúng tôi không được đi lang thang khắp trường vì xung quanh còn nhiều bãi mìn. Rồi cụ Hoài - Tổng giám thị - còn gọi bầy con gái chúng tôi xuống văn phòng vừa tuyên bố mà cũng vừa ngăn cấm chúng tôi không được nhận thư gửi về trường. Sao cụ lại có ý nghĩ rằng chỉ có lũ con gái mới hay nhận thơ tình còn con trai thì sao? Về nhà cũng bị cấm luôn mà dù có thư nào gởi về cũng bị kiểm duyệt nên mọi liên lạc đành chấm dứt từ đó, qua hết thời mộng mơ đợi chờ.

 

     Tôi học Đệ Tam chung với các bạn như Quế Hương, Dạ Khê, Diệu Anh, Trâm Anh, Diệu Phước, Lệ Thủy và Như Huệ luôn luôn ngồi cạnh tôi. Đằng sau lưng là Nguyễn Quang Nghĩa và Trần Đình Hoàn (sau 75 Nghĩa bán thuốc lá ở góc đường Phan Đình Phùng và Cao Thắng). Bốn đứa chúng tôi đã thân thiết gắn bó nhau trong giờ học rất nhiều nhưng hai cu cậu Nghĩa và Hoàn nghịch phá quá chừng! Một hôm vào giờ Văn, mới ngồi vào lớp Hoàn gọi tôi để cho một gói giấy nhỏ, tôi láu táu mở ra. Trời ơi! Một con thằn lằn nhảy vọt vào người, tôi hét lên một tiếng làm thầy Tôn Thất Dương Kỵ cũng phải bật văng ra khỏi bục giảng, lật đật chạy xuống xem thử chuyện động trời gì đã xảy ra mà khủng khiếp dữ vậy? Thầy đã lắc đầu ngao ngán, không ngờ tiếng hét xé ruột của tôi phát ra chỉ vì một con thằn lằn! Vậy là cả lớp hôm đó đã được một trận cười nôn ruột.

     Năm học này không phải bận thi cử gì nên chúng tôi cũng quậy phá dữ lắm, dám đặt các hỗn danh cho các Thầy như thầy Tôn Thất Tắt chẳng hạn hoặc mỗi lần thầy Lê Khắc Du kêu chị Cơ lên trả bài là chúng tôi không nhịn cười được. Tuy nhiên những buổi trưa ở lại vẫn sợ nhất là những lần có việc cần đi ra ngoài, phải đi qua những khung cửa sổ đầy những cặp mắt tinh nghịch của các nam sinh, hai chân quýnh lại còn mặt thì cúi gầm xuống, đâu có dám nhìn ai!

     Năm học Đệ Tam được các học sinh xem như là năm nghỉ ngơi vì mới thi xong Trung học đệ nhất cấp, cho nên năm này đối với tôi là năm đẹp nhất của đời học sinh. Tuổi cũng vừa lớn để cảm nhận những đổi thay của đất trời qua khung cửa lớp, đã biết mộng mơ nhìn mây trắng lang thang và lòng chợt thấy hiu hiu buồn mỗi khi chiều xuống.

 

     Đệ Nhị là năm thi Tú Tài phần I nên phải tu để mà học. Tôi thường hay về Vỹ Dạ để học chung với Trần Thị Gia vì nhà của Gia ở gần bờ sông nên mát mẻ và yên tĩnh vô cùng. Nhiều khi học mệt quá lại kéo nhau ra cánh đồng để thả diều. Nhìn cánh diều lơ lửng trên nền trời cao với gió bàng bạc trong ánh chiều tà thật thanh bình và êm ả quá. Chúng tôi học gạo cả ngày lẫn đêm, học đến xanh xao mặt mày!

     Cuối cùng rồi tôi cũng đậu được kỳ thi viết, đến lúc vào thi vấn đáp mới đúng là „đoạn trường ai có qua cầu mới hay“! Môn Vạn Vật thầy Vũ Đình Chính bắt tôi ra bẻ một ngọn lá phượng rồi từ đó mà mô tả thành bài. Chao ơi! Tôi đứng như trời trồng, lõm bõm được vài câu, biết gì mà nói cho nhiều. Không ngờ rồi Thầy cũng cho điểm tốt. Khủng khiếp nhất là môn Hán văn, đó là môn tôi sợ nhất.

     Lên Đệ Nhất, chúng tôi chỉ chú tâm vào học ba môn chính để chuẩn bị cho kỳ thi viết nên mỗi lần thi lục cá nguyệt cũng khá vất vả với các môn phụ.

     Bảy năm Trung học rồi cũng trôi qua, đậu Tú Tài toàn phần xong, chúng tôi phân tán mỗi người mỗi ngã. Tôi thi vào Sư Phạm ra làm cô giáo, nối nghiệp Ba tôi, sống cuộc đời bình yên với sách vở và phấn trắng bảng đen. Bạn bè, có người gặp nhiều may mắn nhưng cũng có người lận đận lao đao, từ giã mái trường thân yêu, bước xuống dòng đời, mỗi đứa tách về một bến, dù đục dù trong cũng phải đi cho trọn quãng đường đời.

 

     Giờ đây mỗi lần kiểm điểm lại mớ hành trang gọn gàng mang theo lúc vào đời, tôi thấy quý giá nhất vẫn là những kiến thức, những tình cảm nhẹ nhàng tôi đã thâu thập được từ những ngày cắp sách đến trường. Tất cả cuộc đời, cái thời thơ ấu đó là thời dễ thương nhất: biết bao giấc mơ và nỗi khắc khoải của tuổi trẻ, mỗi ngã tư là một hy vọng gặp gỡ bất ngờ!

 

     Năm tháng, nhiều năm tháng đã trôi qua, mới đó mà nay tôi cũng đang đi dần vào tuổi già, thời áo trắng đã xa lắm rồi. Nhìn lại chỉ thấy những ngày còn đến trường là êm đẹp, là thần tiên nhất; quá khứ của chúng ta ở đó và những giấc mộng chưa hề tan vỡ cũng ở đó. Chân bước thênh thang vui đùa với cỏ cây với bầu trời, với gió với mưa như trời đất thiên nhiên tự có sẵn và tự bằng lòng.

      Chừ thì tất cả đã qua đi nhưng kỷ niệm vẫn là kỷ niệm lớn nhất, khó phai nhòa và tôi vẫn muốn luôn luôn nâng niu gìn giữ theo với tháng năm…◙

 

(Tháng 10.2010)

 

 

 

 

           

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20437)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3940)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8641)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8264)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9747)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4836)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2985)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4139)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3843)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]