Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Đường Ba Bậc

10/04/201313:14(Xem: 4403)
Con Đường Ba Bậc

con-duong 

Con Đường Ba Bậc

Vũ Hạnh

--- o0o ---

Ngày xưa, có một chàng trai mang nhiều tâm sự u uất về đời, một sớm lên đường đi tìm Sự Thật.

Anh nghe ở ngôi đền nọ có vị đạo sĩ chân tu luyện được nhiều phép nhiệm mầu, thông đạt nhiều lẽ tinh vi huyền diệu bèn quyết tìm đến cầu học. Đường đi muôn nỗi khó khăn nhưng nhờ chí người sắt đá nên không quản ngại hiểm nghèo. Từ chân trời xa, một hôm, đền Thiêng lồ lộ hiện ra, uy nghi, rạng rỡ. Lòng người trai trẻ bừng lên bao nỗi hân hoan.

Tìm đến biệt phòng đạo sĩ, anh quỳ mọp dưới chân người :

- Thưa thầy, kẻ hèn này từng ngưỡng mộ uy danh của thầy, tin tưởng ở phép nhiệm mầu của đạo, nên từ xa xôi muôn dăm đến đây để cầu mong thầy chỉ cho con đường đi tìm chân lý.

Đạo sĩ bảo rằng :

- Cửa đền không hẹp với ai, lòng đền rộng chứa mọi người. Con đường chân lý xuất phát từ nơi đền Thiêng. Ấy vì Sự Thật bắt đầu tìm thấy bằng sự tin yêu và lòng trân trọng. Từ đây cho đến chót đền, con đường chia làm ba bậc : Bậc nhất của sự Khổ Hạnh, bậc nhì của lòng Vô Tư, bậc ba của tình Nhân Ái. Ba bậc dạy rằng : Không chịu dày công khổ nhọc để biết rõ đời, không rứt bỏ được riêng tư để xét sự vật, không thiết tha vì thương người mà đòi Sự Thật thì không bao giờ tìm thấy Sự Thật. Sự Thật là của mọi người, nhưng phải được tìm đến bằng con đường ba bậc.

Người trai khôn xiết vui mừng, vội hỏi :

- Thưa thầy, vậy Chân Lý hiện ở trên chót đền ?

Đạo sĩ ôn tồn đáp lại :

- Chính thế. Ta biết chắc rằng đi đến cuối cùng bậc ba, ở nơi chót vót đền Thiêng, sẽ gặp tượng thần Chân Lý. Tượng ấy thế nào, ta chưa biết được, vì ta mới đi khỏi đường Khổ Hạnh và vừa xong bậc Vô Tư. Khó nhất là bậc thứ hai vì gạt bỏ được tư ý là điều hết sức nhọc nhằn đối với mỗi người. Còn qua đọan đường cuối - đoạn đường Nhân Ái - sẽ chiêm ngưỡng được Chân Lý huy hoàng, nhưng đường Nhân ái khá gần mà cũng khá xa, bởi con người thường lầm lạc yêu mình với yêu kẻ khác, nên chỉ cách khoảng ba mươi bước nữa mà ta vẫn chưa thoát khỏi những nỗi lụy phiền.

Đạo sĩ lại tiếp :

- Hiện nay trong đền có vô số người tìm học. Có kẻ xong bậc thứ nhất, có kẻ đang bước lên bậc thứ hai, có kẻ loay hoay khởi sự đầu, và biết bao kẻ thối lui, trở về, chối từ tìm hiểu, vì không còn đủ thiết tha để mà chịu đựng bao nhiêu thử thách đang đợi chờ mình. Cửa đền vẫn luôn rộng mở, con hãy tìm lối mà đi.

Chàng trai bắt đầu bước lên con đường Khổ Hạnh để cảm thông những nổi khổ người đời. Với anh, từ đây cảnh sắc chung quanh đã có đổi thay. Tiếng khóc, lời reo, nước mắt, nụ cười cũng đượm vẻ gì khác lạ hơn xưa. Anh không tiếp xúc sự vật bằng các giác quan hời hợt mà bằng rung động từ trong não tủy, thấy được chiều rộng, chiều sâu và cả chiều cao của mỗi âm thanh, càng ngày như gần gũi hơn được với loài người.

Nhưng vào mỗi sớm, nhìn lên đỉnh đền chót vót, anh thấy đường đi quá sức xa vời. Lòng anh không định nên đường ba bậc tuy ngắn mà dài mênh mông. Anh nhìn những bức tường ngăn cùng những bậc cấp cheo leo và muốn rút ngắn đoạn đường. Một hôm, anh bỗng nảy ra một ý ...

Thừa một đêm trăng lạnh lẽo, anh đã dùng dây leo tường.

Vốn quen luyện tập từ nhỏ nên anh không mất bao nhiêu công phu để vượt qua những tường dày lởm chởm, cheo leo. Lên cao, nhìn xuống, anh thấy mình làm được một kỳ công. Khi đến được chót vót đền thì trăng về khuya, rọi dài hình bóng anh trên vách đá như một con người to lớn dị thường. Anh tự thấy mình xa cách hẳn với loài người và cao hơn cả mọi vật. Anh tự nhủ rằng: " Đi tìm Sự Thật không phải chỉ có một đường ba bậc. Với óc thông minh, với lòng dũng cảm và trí quyết đoán, ta vẫn tìm được Chân Lý mau chóng hơn là mọi người ".

Anh bước vào đền, nơi đặt tượng thần Chân Lý. Đi giữa đêm khuya, trên chốn thượng tầng im lặng, dọc theo các dãy hành lang hun hút gió lạnh, anh chỉ thầy bóng của mình lủi thủi bên cạnh, chỉ nghe chân mình vang trên sân đền gây những âm hưởng dị kỳ.

Anh vào bên trong, cảm thấy như mỗi bước đi dội lại một sự tịch mịch nặng nề. Khi mảnh trăng khuya khuất hẳn ngoài đền, anh thấy rúng động, nhưng kiêu hãnh về kỳ công của mình khiến anh dẹp hết ý nghĩ lo âu. Anh lại tự nhủ : " Bây giờ chỉ còn Ta và Sự Thật ". Tượng thần Chân Lý chỉ ở sau cánh cửa kia. Và anh lại gần, thu hết can đảm để xô cửa vào ... Bỗng anh rú lên một tiếng thất thanh.

Một hình tượng thật kỳ quái, to lớn lạ thường, đỏ tươi sắc máu trợn trừng cặp mắt nhìn anh, phóng tỏa muôn ngàn tia lửa. Chiếc miệng há hoác, như một huyệt sâu thăm thẳm xông mùi khí nặc nồng, với hai vành môi mấp máy chừng muốn nuốt lấy muôn ngàn sinh thể. Hơi thở từ trong lỗ mũi khìn khịt tuôn ra, vang rền, như là sấm chuyển rồi biến dần thành đủ loại âm thanh hỗn loạn như tiếng thét gào, những lời nguyền rủa, văng vẳng mơ hồ như đến từ trong quá khứ muôn xưa, vọng về tương lai nghìn thuở. Và khuôn mặt tượng biến hiện sắc màu chớp nhoáng ; như sự tang thương của những cảnh đời.

Người trẻ tuổi khiếp đảm đến cùng độ, hai tay vội ôm lấy mặt, tưởng máu cạn chảy trong người, cố gắng chạy ra khỏi đền trên đôi chân muốn rời rụng, luống cuống húc đầu vào các cột đá, vấp trên bục cửa, ngã trên nền gạch, nhưng sự kinh hoàng quá độ đã khiến anh phải ngượng dậy tìm cách thoát thân .. Anh bám vào tường, tìm sợi dây leo, vội vàng tụt xuống. Nhưng vì vội vàng, anh rơi từ nơi vách cao xuống dưới chân đền.

Mờ sáng hôm sau, ở dưới chân đền, người ta tìm thấy xác anh cứng lạnh, nét mặt còn co rúm lại trong vẻ hãi hùng.

Đạo sĩ trầm ngâm đứng nhìn kẻ đã vĩnh viễn giã từ cõi sống, rồi quay bảo những học trò : " Đây là kẻ không muốn tìm Sự Thật bằng con đường chính. Y đã theo con đường tà, vì cho rằng con đường ấy mau hơn và chỉ có tài năng mới giúp cho y toại nguyện. Y đã quên rằng cái tâm mới là chính yếu trong mọi tìm kiếm trên thế gian này.

Cái tâm đã chính, tài năng sẽ là chiến công, thành tích rỡ ràng. Cái tâm đã tà, tài năng chỉ là thủ đoạn, mưu mô hèn hạ. Kết quả tìm thấy là một sự thật gớm ghiếc làm y khủng khiếp đến phải hủy diệt đời mình. Các con hãy ghi nhớ lấy : Sự Thật tốt đẹp, Sự Thật an ủi và nâng cao được lòng người chỉ có thể đến bằng con đường ba bậc, là điều Khổ Hạnh, là sự Vô Tư, là Lòng Nhân Ái. Kẻ nào không chịu đi bằng ngả ấy mà muốn dùng những mưu mô, thủ đoạn, đàn áp, phỉnh lừa thì phải chịu sự hủy diệt thảm khốc. Đó là những kẻ bá đạo lấy xương máu người lập nên ngai vàng, những lớp gian thương dùng óc xảo trá xây nên sự nghiệp, những bọn tham nhũng tìm đến giàu sang bằng lối cửa quyền và sự trấn lột, những hạng chỉ muốn đi con đường tắt làm bằng lừa lọc, ngụy trang, cốt sao thỏa mãn riêng mình mà không lường đến những sự trừng phạt của đời luôn đợi chờ mình ở những bước ngoặc ".

Đạo sĩ ngừng lời, đảo đôi mắt còn sáng rỡ nhìn chăm vào đám đệ tử vây quanh, rồi nghiêm nghị bảo :

- Từ lâu ta đã nhắc nhở các con điều đó, bây giờ đây là chứng cớ hiển nhiên. Hãy đem chôn xác của y ở trước cửa đền, đồng thời tạc trên mộ y nét mặt kinh hoàng, khủng khiếp của kẻ tìm gặp Sự Thật bằng lối tà tâm để làm gương cho bao nhiêu kẻ khác.


Nhà văn Vũ Hạnh
(Dựa theo một ý của Văn hào Schiller)

--- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4706)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6638)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4863)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10107)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3624)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4825)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5057)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7552)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4237)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13463)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]