Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm con suối mới (Truyện thơ)

21/04/201806:53(Xem: 7214)
Tìm con suối mới (Truyện thơ)

tim con suoi moiTÌM CON SUỐI MỚI

 

Ngày xưa có một nhà buôn

Dẫn đoàn xe nọ lên đường đi xa

Đem theo hàng hóa bán ra

Lời nhiều muốn kiếm phải qua nước ngoài,

Hành trình gian khổ kéo dài

Một ngày đoàn tới ven nơi hiểm nghèo

Bãi sa mạc nóng như thiêu

Ban ngày cát mịn nóng nhiều như nung

Đi ngang qua khó vô cùng

Xe bò kéo nặng càng không dễ dàng.

Nhà buôn chợt nghĩ khôn ngoan:

"Chờ đêm mát mẻ cát vàng dịu đi

Vượt qua sa mạc khó chi

Tìm đường bằng cách hướng về chòm sao

Sao trời định hướng trên cao

Thuê người thông thạo nhìn sao dẫn đường."

*

Sau khi chuẩn bị kỹ càng

Băng ngang sa mạc cả đoàn xe đi

Vài ngày qua, vào tối kia

Sau khi ăn uống, đợi khuya mát trời

Cả đoàn tụ họp vui chơi

Chờ khi cát nguội mọi người lại đi.

Trời khuya quạnh vắng bốn bề

Anh chàng hướng dẫn ngồi xe dẫn đầu

Nhìn chòm sao ở trên cao

Vui mừng loan báo: "Sắp mau qua rồi

Còn đêm nay nữa mà thôi

Mai qua sa mạc tới nơi an toàn!"

Anh chàng khoái chí mơ màng

Thả hồn vào giấc mộng vàng nửa khuya

Ngủ quên đi chẳng biết chi

Để cho bò kéo xe đi mặc lòng,

Bò đi chệch hướng, quay vòng

Suốt đêm đi mãi cuối cùng trở lui

Quay đầu về chốn cũ rồi

Đến khi trời sáng mọi người hoảng kinh

Thế là hỏng cả lộ trình

Còn đâu đủ nước để dành nữa đây

Chắc là chết khát! Khổ thay!

Lẽ ra đoàn vượt chốn này đã xong

Mọi người than thở não lòng

Khóc thương số phận long đong kiếp người

Trách người lãnh đạo hết lời

Trách người dẫn lối bất tài, bất nhân

Cùng nhau buồn bã phàn nàn:

"Nếu không có nước chẳng làm được chi!"

Nhà buôn tự nhủ: "Thật nguy

Trăm điều khốn đốn, muôn bề gian truân!

Nếu mà ta xuống tinh thần

Xứng đâu lãnh đạo cả đoàn nữa đây

Cứ ngồi than bất hạnh này

Lầm bầm oán trách, bó tay chẳng làm

Thì hàng hóa sẽ tiêu tan

Người và súc vật lại càng lâm nguy

Tử thần sẽ đến rước đi,

Ta cần nghị lực một khi đương đầu!"

*

tim con suoi moi-2

Trưởng đoàn lui tới hồi lâu

Nghĩ suy tìm kế nhiệm mầu cứu nguy

Chợt đâu thấy ít cỏ kia

Nhô trên mặt đất, lá thì vẫn tươi

Nghĩ rằng: "Cây cỏ khắp nơi

Nếu không có nước sống thời được đâu"

Nghĩ xong ra lệnh đào sâu

Ngay nơi cỏ mọc mong sao đúng nguồn,

Đào hoài chẳng thấy nước tuôn

Đụng vào tảng đá chắn luôn mất rồi

Bà con ngừng lại kêu trời

Lại than, lại trách móc nơi trưởng đoàn:

"Đào vô ích! Phí thời gian!"

Trưởng đoàn lên tiếng khuyên can mọi người:

"Anh em chớ có buông xuôi

Nản lòng bỏ cuộc tàn đời còn chi

Cùng nhau cố gắng lên đi

Kẻo mà bỏ mạng, xa lìa vợ con!"

Nói xong nhảy xuống hố luôn

Áp tai vào đá nghe nguồn nước sâu

Chợt nghe dưới đá rì rào

Nhẹ tuôn tiếng nước thì thào vọng lên

Trưởng đoàn mừng rỡ vô biên

Gọi chàng trai trẻ đến bên dặn rằng:

"Nếu ta bỏ cuộc giữa đường

Cả đoàn đều chết thảm thương chốn này

Hãy cầm búa nặng trong tay

Nhắm vào tảng đá đập ngay xem nào!"

Chàng trai nâng búa lên cao

Tập trung sức lực bổ vào đá kia

Mọi người kinh ngạc kể chi

Khi nhìn thấy đá vỡ lìa làm đôi

Một tia nước vọt ra ngoài

Cả đoàn mừng rỡ vái trời tạ ơn

Đun nước uống, nấu đồ ăn

Đua nhau tắm rửa lòng tràn niềm vui,

Lấy thêm nước chứa đủ rồi

Chăm nom súc vật, xong xuôi lên đường.

Lo xa giúp khách thập phương

Sau này có dịp đi ngang chốn này

Dễ dàng tìm nước được ngay

Trưởng đoàn dựng tại nơi đây cột cờ,

Khách buôn dù ở tận xa

Biết đường tới giếng, thật là tiện thay!

Hành trình tiếp nối vài ngày

Cả đoàn mừng chuyến buôn đầy thành công.

*

NHẬN DIỆN TIỀN THÂN
Nhà buôn trưởng đoàn là tiền thân Đức Phật.
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(phỏng dịch theo bản văn xuôi
FINDING A NEW SPRING

của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2094)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3318)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2677)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2824)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2185)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2051)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1866)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2260)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1707)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3290)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567