Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Linh khuyển thiện thính.

10/04/201312:57(Xem: 5928)
Linh khuyển thiện thính.

Linh Khuyển Thiện Thính

Nguyêntác:LâmThanhHuyền 
Người dịch : Phạm Huê

Trong những bức tranh và tượng của Địa Tạng Vương Bồ Tát, chúng ta thường thấy dưới chân ngài phủ phục một con linh khuyển. Con vật này có một nô bộc trung thành, vừa là con vật để Địa Tạng Vương Bồ Tát cưỡi trong suốt cuộc hành trình phổ độ chúng sinh. Con linh khuyển này có hai chiếc tai rất lợi hại, một chiếc có thể nghe được pháp âm của thập phương chư Phật, một chiếc kia thì lại có thể nghe được những lời than khổ của thập vạn chúng sinh. Vì vậy mà trong những bức tranh vẽ về Địa Tạng Vương Bồ Tát, chú chó Thiện Thính này có một tai vểnh lên, và một tai kia thì cụp xuống, trông rất ngộ nghĩnh, nhưng lại không mất phần linh hoạt của một con vật thông minh.

Tôi đối với chú linh khuyển Thiện Thính này có rất nhiều sự thân thiện, ở chỗ là lúc nhỏ nhà tôi cũng có nuôi một con chó có một chiếc tai vểnh lên và tai kia thì cụp xuống. Tuy rằng giống chó ta không đẹp, không quý và dĩ nhiên là không sang như những con chó nhà giàu ngoại quốc, thế nhưng nó khiến cho người ta có một cái cảm giác thân thiện hơn.

Những pháp tướng của Địa Tạng Vương Bồ Tát trước thời nhà Đường không ghi nhận sự có mặt của con chó trung thành này, chỉ từ khi thái tử Kim Kiều Giác của nước Tân La (miền trung bộ của nước Cao Ly, tức Đại Hàn bây giờ) sang Trung Quốc xuất gia thì sự tích của Địa Tạng Vương Bồ Tát mới được truyền tụng nhiều hơn và hình ảnh của vị Bồ Tát này cũng từ đó có nhiều màu sắc sống động hơn.

Thái tử Kim Kiều Giác của Tân La Quốc là một người hâm mộ Phật Pháp từ nhỏ. Năm 24 tuổi, ông bỏ cả ngai vàng thệ nguyện xuất gia, lấy pháp hiệu là Địa Tạng. Vì hâm mộ sự phát triển Phật Pháp tại Trung Quốc lúc bấy giờ cho nên vào năm Đường Trinh Quan thứ tư, ông dẫn con chó thương yêu tên là Thiện Thính lặn lội từ Cao Ly vào Trung Quốc học đạo. Tỳ kheo Địa Tạng vân du nhiều nơi ở Trung Quốc, cuối cùng khi đến núi Cửu Hoa tại tỉnh An Huy thì chịu phong cảnh và địa thế ở nơi đó nên đã cất một túp lều tranh để tu hành. Trong thời gian tu khổ hạnh tại đó, chú chó Thiện Thính luôn là một người bạn trung thành túc trực bên mình của ông.

Sau đó, có một vị trưởng giả lên núi du ngoạn và phát hiện được tỳ kheo Địa Tạng. Ông ta đã phát nhuyện cất một ngôi thiền viện để cúng dường. Lúc đó tại địa phương đó có một nhà phú thương tên là Văn Các Lão cũng đã đóng góp rất nhiều tiền của trong việc kiến trúc thiền viện. Văn Các Lão đến hỏi tỳ kheo Địa Tạng cần bao nhiêu đất để ông ta đứng ra lo liệu để mua. Tỳ kheo Địa Tạng trả lời là chỉ cần miếng đất che phủ bởi tấm cà sa của ông là đủ, thế nhưng khi ông giũ chiếc cà sa ra thì chiếc áo nhiệm mầu đã phủ nguyên một ngọn núi Cửu Hoa. Văn Các Lão là một người rộng rãi, ông đã giữ lời hứa cúng nguyên một ngọn núi cho chùa này, ông lại còn khuyên người con trai xuất gia theo Địa Tạng, lấy đạo hiệu là Đạo Minh. Vì vậy mà sau này trong những pháp tượng của Địa Tạng Vương Bồ Tát, người ta thường thấy, một là đại hộ pháp Văn Các Lão, và vị kia chính là Đạo Minh, con trai của ông.

Trong thời gian tu luyện tại núi Cửu Hoa, tỳ kheo Địa Tạng có nhiều truyền thuyết về thần thông đã được lưu truyền trong nhân gian, vì vậy mà hầu như ai cũng tin rằng tỳ kheo Địa Tạng chính là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát xuất thế để cứu khổ và độ trì chúng sinh. Hiện nay, Cửu Hoa Sơn đương nhiên trở thành đạo tràng của Địa Tạng Vương Bồ Tát (chú thích 1).

Tỳ kheo Địa Tạng tổng cộng trụ trì 75 năm tại núi Cửu Hoa và thọ đến 99 tuổi. Suốt thời gian tu luyện ngài không có trở về nước. Ông nhập Niết Bàn vào ngày 30 tháng 7 năm Đường Khai Nguyên thứ 26. Tọa quan (chú thích 2) ba năm, đến khi khai quan thì dung mạo ông vẫn y hệt như người sống. Tay chân ông hãy còn mềm dẻo và có thể di chuyển được. Mãi cho đến ngày nay, nhục thân của tỳ kheo Địa Tạng vẫn còn được cung phụng tại Cửu Hoa Sơn cho thiện tín chiêm ngưỡng.

Những sự tích của tỳ kheo Địa Tạng có ghi chú trong những quyển Cao Tăng Truyện và Thần Tăng Truyện của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện có thật và là một người có thật được ghi nhận trong sử sách. Chỉ tiếc rằng trong những quyển sách này ít đề cập đến chú linh khuyển Thiện Thính vừa kể ở trên. Nhiều người tin rằng chú linh khuyển này là đầy tớ trung thành của Địa Tạng Vương Bồ Tát cho nên sự tích trên mới được lưu truyền và những hình ảnh của chú chó tinh khôn này.

Mỗi khi đảnh lễ Địa Tạng Vương Bồ Tát tôi thường chú mục và nghiêm chỉnh kính lễ linh khuyển Thiện Thính. Mỗi lần như vậy tôi cảm thấy trong tâm hồn thư thái. Cứ thử nghĩ một con chó bình thường của người phàm nuôi cũng đã rất nhạy cảm với âm thanh, có thể nghe và diễn đạt được những tín hiệu từ xa, huống hồ gì linh khuyển Thiện Thính là một thần vật đã nhập tâm những Phật pháp nhiệm mầu của Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Thiện Thính hay lắng nghe, đó là bước khởi đầu trong tâm học Phật Giáo, lắng nghe được những di động của hoàn cảnh chung quanh, lắng nghe được những sự kỳ diệu trong tâm linh, và cũng lắng nghe để có thể "trên hợp cùng giác tâm của thập phương chư Phật, cùng Như Lai đồng nhất từ lực, dưới hợp cùng thập phương nhất thiết lục đạo chúng sinh (chú thích 3), cùng chư chúng sinh đồng nhất hướng Phật".

Chúng ta dùng một tâm trạng để lắng nghe những sự việc xảy ra trong thế giới này ? Khi lắng nghe như vậy thì tâm hồn chúng ta đã chuẩn bị để đối phó với những sự việc này ra sao ? Phật dạy, trong trăm ngàn vui mừng, chúng ta hãy thản nhiên tiếp nhận. Trong muôn vàn đau khổ, chúng ta cũng nên bình thường đối diện.

Chúng sinh là ta, ta là chúng sinh; Chúng sinh là sự thành tựu của Bồ Tát, Bồ Tát là sự viên mãn của chúng sinh. Trong cái vũ trụ bao la bát ngát này, Bồ Tát và chúng sinh đều là một thể duy nhất. Chúng ta đối đãi với chúng sinh cũng y như vậy. Chúng ta lắng nghe Bồ Tát và chúng sinh như thế nào, thì cũng chính như lắng nghe tiếng lòng của chúng ta như vậy.

Vậy thì chúng ta hãy cùng cất bước nối tiếp theo lời thề nguyền của Địa Tạng Vương Bồ Tát , đi cứu giúp những chúng sinh còn đang ngụp lặn trong ác đạo. Và hãy noi theo gương của linh khuyển Thiện Thính, mở rộng đôi tai trong tâm hồn để nghiêm khắc, kính cẩn, khoan dung, và ôn hòa để lắng nghe cái thế giới mà chúng ta đang ngụp lặn.

Chú Thích

1. Cửu Hoa Sơn : Nằm trong tỉnh An Huy, là Thuyết Pháp Đạo Trường của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Xin xem chi tiết ở bài Cửu Hoa Sơn, Thánh Địa Phật Giáo Trung Quốc trong quyển nầy.

2. Tọa Quan: Những vị cao tăng viên tịch trong lúc tĩnh tọa được gọi là tọa quan. Trong những chùa chiền lớn ngày xưa, người ta di chuyển thân xác của chững vị cao tăng vào trong mộ đài xây dưng hình dạng tháp đứng.

3. Lục Đạo Chúng Sinh : Trong lý thuyết của nhà Phật, thì chúng sinh được chia ra làm sáu cõi luân hồi, hay còn được gọi là Lục Đạo. Đó là Thiên giới, A tu La, loài Người, Súc Sinh, Ngạ Quỷ, và Địa Ngục. Thiên giới và A Tu Là gồm có những chúng sinh đã tạo được thiện căn ở vô số kiếp, giới này gồm có các Thiên Tiên, các Thần, Long Vương, QuỷVương, Dạ Xoa v. v…. Loài người thì thấp hơn một bậc. Còn ba cõi Súc Sinh, Ngạ Quỷ va Địa Ngục là những chúng sinh có nghiệ�p chướng nặng hơn. Nhất là Địa Ngục gồm có những chúng sinh mà tiền kiếp đã có nhiều tội lỗi nên phải ở lại đó để chịu những hình phạt. Trong nhiều sách Phật, có sách đã gọi chung ba cõi Súc Sinh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục là hạ tam đạo, hay là ba cõi thấp.

- o0o -


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4663)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43782)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4381)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4331)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4240)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6352)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4621)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4031)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24941)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24020)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]