Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mưa nắng hai mùa

10/04/201312:54(Xem: 4508)
Mưa nắng hai mùa

 canhdep_8

Mưa nắng hai mùa

Thu Nguyệt

Nắng. Cái nắng làm người ta lúc nào cũng phải hấp háy mắt, ánh sáng dư thừa đến mức dường như có thể nhìn thấy từng mảng không khí xung quanh đang chuyển động như những váng dầu trên mặt nước. Nắng. Nắng như thế mà không nóng. Ngọn núi này có điều đặc biệt như thế. Những thân cây trụi lá, khô khốc, khẳng khiu, thế nhưng khi đưa tay thử bẻ một cành nhỏ, ta sẽ bất ngờ vì sự tươi mềm của nó. Giống như cây mai mới vừa được lặt lá trong những ngày sắp tết vậy. Chỉ có cây là hiểu rõ mùa, hiểu rõ nắng mưa vốn có. Ông Núi sống trong ngọn núi này cũng thế.

Người ta chẳng biết ông từ đâu đến và đến từ bao giờ, chỉ biết là từ lâu lắm, khi mới chỉ vài người đầu tiên đến đây lập nghiệp thì đã có ông Núi sống ở trong hang. Chẳng ai biết ông tên là gì nên cứ gọi là ông Núi. Như một bức tượng La Hán, ông Núi ít khi trò chuyện với ai. Ông sống bằng trái, lá cây và nước suối. Có lần một người dân trong vùng kể lại rằng anh ta mang đến cho ông một buồng chuối chín, rồi ngồi lại nhìn ông ăn. Ông không bẻ chuối rời ra như ta thường làm, mà cứ để nguyên buồng, tách võ, lấy ra từng trái rất khéo, ông ăn một mạch hết buồng chuối, mà nhìn như buồng chuối vẫn còn nguyên. Anh chàng thấy vậy liền mang buồng võ chuối về treo lên giữa nhà, buồng chuối khô dần nhưng không rữa mục, nhìn rất đẹp và ngộ. Từ đó, dân trong vùng, nhà nào cũng chọn một buồng chuối đẹp nhất, mang cúng ông và đem võ buồng chuối về treo trong nhà như một vật thiêng.

Xóm núi lơ thơ vài căn nhà nhỏ, bình yên giữa rừng cây cổ thụ bạt ngàn. Ông Núi thỉnh thoảng đến nhà chữa bệnh cho những người trong xóm. Ông có một xâu chuỗi rất đặc biệt, khi chữa bệnh, ông mài những hạt chuỗi ra, hòa với nước cho uống đúng ba lần là khỏi bệnh. Không biết xâu chuỗi của ông gồm những loại thuốc gì, nhưng bệnh nào ông cũng mài xâu chuỗi ấy. Ông ngồi bên bờ suối, giữa đá và nước, trong không khí yên ắng của rừng, chậm rãi, ung dung, nhẹ nhàng mài từng hạt, từng hạt... Nhìn dáng ngồi thanh thoát của ông khi mài chuỗi, người bệnh chưa uống thuốc đã cảm thấy như được khỏi bệnh rồi. Ông không đeo xâu chuỗi luôn bên mình, mỗi khi vào hang, ông để lại xâu chuỗi treo lên vách đá trước cửa hang. Trong xóm mỗi lần có người bệnh, đến tìm, nhìn thấy xâu chuỗi treo trước cửahang là biết chắc mình sẽ được cứu, không thấy tức là ông đi vắng. Ông đi đâu và bao giờ về thì không ai có thể biết được. Không phải trường hợp nào bệnh cũng được ông cứu chữa. Không ai tìm được ông, chỉ biết lúc nào cần thì ông xuất hiện, và ai được ông chữa thì chắn chắn là khoẻ, dù bệnh trạng có ngặt nghèo đến đâu.

Dân cư xóm núi ngày thêm đông đúc, cây cối thưa dần dù lắm chính sách tuyên truyền bảo vệ. Ông Núi ít chữa bệnh hơn dù người bệnh khá nhiều. Xóm núi đông người kèm theo nhiều mối quan hệ phức tạp. Núi bị chia chẻ thành nhiều mảnh sở hữu riêng lẻ. Rồi những cuộc cải vã, xô xát nhau đôi khi chỉ vì vài chục mét đất rẫy. Nơi nào có dấu chân nhiều người là nơi ấy bắt đầu có sự tranh giành, chiếm đoạt. Xóm núi đặc biệt có hai nhóm họ xung khắc rất dữ với nhau, đó là nhóm họ nhà ông Trần và nhóm họ nhà ông Phạm. Cùng là dân lưu lạc đến xóm này từ những năm sáu mươi. Họ đốt rừng làm rẫy và tranh nhau suýt mấy lần đổ máu. Mối hận vẫn ngun ngún cháy trong lòng cả hai bên.

Sắp đến mùa mưa rồi, cũng là mùa gieo hạt. Lại sắp phải cải nhau vì mấy cái rẫy màu mỡ bên kia đồi. Lòng người không đo được, nhưng vật sở hữu của người thì bất cứ thứ gì cũng được cân đong đo đếm rất kỷ lưỡng. Đất đai thì liền mạch nhưng ranh giới được vạch ra bởi con người thì lắm nỗi dọc ngang. Nếu đất mà nói được thì chắc là những cục đất ở các vạch phân chia phải nhiều tâm sự lắm!

Ông Trần bỗng nhiên ngã bệnh. Nhà họ Phạm hay tin này còn nhanh hơn những người thân nhà họ Trần. Ở đời, có khi nỗi đau của người này lại là niềm vui của người khác một cách nhẫn tâm hồn nhiên!

Ngày trước, cách đây hơn hai mươi năm, đã có lần ông Trần vác phảng rượt ông Phạm chạy chí chết vì tranh nhau miếng đất gần chân núi. Lần ấy, nếu không nhờ con suối cứu mạng - vì ông Trần không biết bơi - thì chắc là máu đã đổ. Mảnh đất ấy cuối cùng không về tay ai cả, vụ kiện chỉ đem lại cho làng mảnh đất sở hữu chung. Riêng ông Phạm “sở hữu” một mối nhục truyền đời, tháng ngày âm ỉ ngún trong sự phẩn uất. Ông đã nhờ vào đôi chân và khả năng bơi lội giỏi của mình để tự bảo vệ, nên pháp luật đâu có cơ hội để bảo vệ ông. Đôi khi ông ngồi nghĩ quẩn: Phải chi lúc ấy mình để hắn chém cho mình một phảng thì chắc chắn là hắn đã phải ngồi mục xương trong tù, hết huênh hoang khoác lác! Con cháu hắn sẽ mang một cái lý lịch là hậu duệ của một tên giết người, còn hắn sẽ mang một bản án của kẻ sát nhân bị mọi người kinh tởm, nguyền rủa. Còn ông, thà chết mà rửa được hận, còn hơn sống mà mang nỗi nhục triền miên. Đã có những lúc ông Phạm nghĩ như thế.

Nghe tin ông Trần bệnh, ông Phạm ngấm ngầm đi lên hang ông Núi dò la. Không nhìn thấy xâu chuỗi treo trên vách đá, ông khấp khởi mừng thầm, nhưng không yên tâm, ông tìm một góc khuất, ngồi quan sát. Người nhà ông Trần cứ vài giờ lại đến thăm chừng xem ông Núi đã về chưa. Hai luồng ý muốn, mong mõi khác nhau, người mong ông Núi về, kẻ mong ông Núi đừng có mặt; bên công khai, bên bí mật, nhưng cả hai đều sốt ruột, bất an và căng thẳng như nhau. Nhiều ngày trôi qua, vậy rồi ông Núi xuất hiện trong tiếng reo vui vỡ òa hy vọng và tiếng thở dài len lén thất vọng. Ông Phạm thất ý trở về khi ông Núi bắt đầu ngồi xuống mài hạt chuỗi đầu tiên .

Cơn bốc hỏa, nỗi bực tức vẫn đeo đẵng theo từng bước chân ông Phạm. Cái tên Trần ấy, sao nó không chết quách đi cho rảnh. Ông nhớ như in gương mặt đằng đằng sát khí và cái phảng lấp loáng ánh nắng sắc ngọt của ông Trần. Lửa căm hận trong lòng ông Phạm lại cháy. Ông cảm thấy nóng bức vô cùng. Bước chân vô tình dẫn ông đến đúng cái lối ngày trước ông Trần đã rượt đổi ông. Con suối bắt đầu vào mùa mưa, nước chảy rất mạnh, dâng tràn khiến đôi bờ suối mỗi ngày một xa rộng thêm ra. Ông bước ào xuống suối, đưa tay đánh tung tóe trên mặt nước. Không! Ông không thể chịu đựng mãi khi ông Trần cứ mỗi lần say rượu lại huênh hoang kể lại chuyện cũ, kể lại cái “thành tích” của mình, rồi miêu tả, rồi thêm thắt đủ thứ về cái sự yếu hèn, nỗi nhục nhã của kẻ thất thế để bôi nhọ ông. Ông đã chịu đựng nhiều rồi, ông không muốn con cháu ông sau này lại tiếp tục nghe câu chuyện ấy. Tháng trước, ông suýt vác dao sang nhà liều mạng với ông Trần một phen, khi nghe thằng cháu nội đích tôn của ông mới vừa 6 tuổi, đi ngang nhà ông Trần lúc ông này đang say rượu, ông ngoắc thằng bé vô và nói với nó: “Ông nội mày là thằng hèn! Tao đã từng vác phảng rượt nó chạy thục mạng, nếu nó không lạy tao đến bật máu trán ra, thì tao đâu có tha cho nó, để làm gì bây giờ có cái mặt mày trên đời!”. Câu nói này hơn hai mươi năm trước ông Trần đã nói tương tự như vậy với đứa con trai 8 tuổi của ông. Ông Phạm uất đến tím cả người. Nhục một mình ông chịu được, nhưng đến con ông, rồi đến cháu ông cũng phải chịu nhục vì ông thì ông không thể chịu đựng được nữa! Cái lão Trần ấy còn sống ngày nào là còn rêu rao, còn chọc ngoáy vào vết thương của ông, bôi nhọ ông và cả đến con cháu nhiều đời của ông nữa. Càng nghĩ ông càng căm hận. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, ông Phạm vội vàng bước lên khỏi suối, hối hả đi về nhà. Năm xưa, một người dân tộc đã cho ông một loại thuốc, hình như làm bằng nhựa cây hòa cùng nọc rắn gì đó, cực độc, dùng để bôi lên đầu mũi tên khi săn thú dữ. Bao nhiêu năm qua ông chẳng dùng để làm gì, vẫn cất kỹ. Ông vạch sẵn một kế hoạch trong đầu, ông sẽ tìm cách bôi lên xâu chuỗi của ông Núi. Dễ thôi mà, xâu chuỗi ông Núi vẫn treo ở cửa hang...

Tiếng trống mõ đám ma ông Trần thỉnh thoảng lại vang lên, dội vào tim ông Phạm từng nhát khó tả. Tiếng trống mõ đi vào cả trong giấc ngủ chập chờn của ông sau hơn ba tháng kể từ ngày ông Trần mất. Ngày nào ông Phạm cũng lên hang, ngồi chờ ông Núi, chờ để lấy xâu chuỗi mà chính tay ông đã bôi thuốc độc. Ông sợ ông Núi lại dùng xâu chuỗi ấy để chữa bệnh cho người khác nữa thì tội của ông không biết đến đâu. Nhưng ông Núi đi đâu vắng biệt. Ngày nào ông cũng sống thấp thỏm trong sự âu lo và chờ đợi và dằn vặt. Ông Phạm đếm từng ngày, hôm nay đã là ngày thứ 103, gần 4 tháng rồi! Ông Núi vẫn chưa về. Ông Phạm nhìn mãi lên cửa hang, đôi khi hoa mắt, ông như nhìn thấy xâu chuỗi ẩn hiện trên vách đá, khi thì nhòe nhoẹt màu đỏ như máu, khi lại thấp thoáng gương mặt ông Trần... Tinh thần ông Phạm ngày thêm hoảng loạn. Ông gầy rộc, hốc hác, ngơ ngẩn như người mất trí.

Ông Núi rồi cũng trở về, Ông Phạm đã lấy được xâu chuỗi. Ông mang xâu chuỗi về nhà, gói rất kỹ, giấu dưới gối và cấm tiệt không cho ai được bước lại gần giường của mình. Lấy được xâu chuỗi rồi, ông ngỡ rằng mình sẽ bình tâm lại, nhưng không, bệnh tình ông ngày một thêm trầm trọng. Người nhà ông lại thay phiên nhau đứng ở cửa hang chờ ông Núi. Nhưng ông Phạm biết, vô ích thôi, xâu chuỗi đâu còn nữa. Cho đến một ngày... khi ông Phạm lên cơn hấp hối thì ông Núi xuất hiện trước mặt ông với một xâu chuỗi y như thế trên tay. Ông Phạm gượng chút sức tàn, bảo con trai và cháu nội dìu ông quì xuống trước mặt ông Núi và trao lại cho ông Núi xâu chuỗi tẩm thuốc độc. Ông Phạm định kể lại tất cả tội lỗi của mình, nhưng ông Núi đã từ tốn nói:

- Ta đã biết tất cả, con không cần kể lại đâu. Ta còn có chuyện này để kể cho con nghe...

Khi ông Trần ngã bệnh, sau nhiều ngày chờ đợi ông Núi, nằm trên giường bệnh nhìn thấy sức lực của mình ngày thêm mòn mõi, cái chân cái tay ngày nào cầm phảng rượt đuổi ông Phạm qua mấy ngọn đồi giờ đã không cầm nổi ly nước uống. Khi gần đến cái chết người ta mới thấm thía những trò phù phiếm của cuộc đời. Không hiểu sao, trong những ngày cuối đời, người mà ông nghĩ đến nhiều nhất lại là ông Phạm, cái người mà hơn nửa đời người bị ông nhục mạ, cái người đã đem lại niềm “tự hào”, “vinh quang” cho ông, “thành tích” của ông!

Ông Núi đã mài thuốc cho ông Trần uống. Ông Núi tự tay mình bưng đến bên giường bệnh ông Trần và nói: “Thật ra, bệnh của con đã đến hồi không cứu được nữa rồi, nhưng nếu con còn muốn sống để tiếp tục cái nghiệp mà từ lâu nay con đã gieo với nhà họ Phạm, thì con hãy uống chén thuốc này.” Nhìn gương mặt hiền hòa thanh thoát diệu kỳ của ông Núi, ông Trần như người chợt tỉnh cơn mộng. Ông Trần đã không uống. Chén thứ nhất, rồi chén thứ hai (chén này là chén thuốc mà theo ông Phạm trước đây nghĩ là đã có thuốc độc) rồi chén thứ ba... Ông Trần vẫn không uống, mặc cho người nhà vật vã khóc than nài nỉ. Ông Núi dặn người nhà ông Trần không ai được nói ra rằng ông Trần vì đã không uống thuốc mà chết...

Ông Phạm nở một nụ cười nhẹ nhõm. Cũng như ông Trần, ông Phạm trút hơi thở cuối cùng trong ánh nhìn từ bi, bao dung của ông Núi. Dù chỉ là một ánh nhìn, nhưng cũng đủ làm thành một hành trang, nếu người ra đi biết nhặt nó cho vào trong hành lý của mình.

Mùa mưa qua rồi, con suối chảy nhẹ nhàng hơn và làm gần lại đôi bờ. Nắng. Trời lại nắng, và những thân cây trụi lá tiềm ẩn trong mình những nụ non xanh, vẫn sẳn sàng cho một mùa lộc mới, chỉ cần có nắng có mưa.

--- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4348)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
19/10/2017(Xem: 14063)
Truyện thơ: Hoàng Tử Khéo Nói và Con Thủy Quái, (thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi PRINCE GOODSPEAKER AND THE WATER DEMON của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson) , Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình. Thế rồi hoàng hậu hạ sinh Một trai kháu khỉnh đẹp xinh vô cùng Nhà vua sung sướng vui mừng Nghĩ suy chọn lựa tìm đường đặt tên Mong cho con lúc lớn lên Vẻ vang ngôi vị, êm đềm tương lai Vua bèn đặt tên con trai Hoàng tử Khéo Nói, nhiều tài mai sau.
06/09/2017(Xem: 7418)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
31/08/2017(Xem: 5056)
Vào một buổi tối mùa đông cách đây hơn 30 năm, tại thủ đô Washington của nước Mỹ, một quý bà không may đánh rơi chiếc cặp tài liệu trong bệnh viện. Chồng của quý bà là một thương nhân giàu có. Ông đã vội vã quay lại bệnh viện giữa đêm hôm để tìm kiếm, bởi vì trong chiếc cặp không chỉ là rất nhiều tiền mà còn có cả một tập tài liệu mang thông tin mật của thị trường tài chính. Vị thương nhân đang đảo mắt tìm kiếm thì thấy một đứa trẻ rách rưới đứng ở hành lang bệnh viện. Cô bé đứng dựa vào tường, người vẫn còn co rúm trong bộ quần áo mỏng manh. Và trên tay cô bé chính là chiếc cặp mà vợ ông đánh mất.
29/08/2017(Xem: 6767)
Khi tôi 26 tuổi, tôi hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. George có mái tóc đen, mắt xanh và cặp lông nheo dài tôi chưa bao giờ thấy ai có được như vậy. Cu cậu bắt đầu nói khi được chín tháng, đi được khi được mười tháng và có thể bay nhảy khi được hai tuổi. Cậu bé là niềm vui của tôi, và tôi yêu thương thằng bé hơn cả tình thương mà tôi có. Đứa Con Trai Hoàn Hảo, Sharon Drew Morgan, Quảng Tịnh dịch
21/08/2017(Xem: 4667)
Tại Sao Tôi Đi Tu ? Thích Từ Lực và Trần Mạnh Toàn, Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.
09/08/2017(Xem: 4264)
Tôi về ở trong appartement này đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian dài đủ để chứng kiến bao cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời. Bóng xế hoàng hôn ảm đạm dàn xuống chung cư này nhiều hơn là ánh sáng rực rỡ của những buổi bình minh... Những năm đầu khi tôi mới đến, vợ chồng ông Damhart ở tầng 1 là một cặp vợ chồng đã được nhiều người yêu mến về tính tình cởi mở, luôn luôn hòa nhã với mọi người. Bà rất siêng năng mẫu mực, làm việc nhà không biết mỏi mệt, lúc nào cũng mang sẵn một cái tablier trước ngực. Tôi có cảm tưởng như công việc nhà của Bà làm không bao giờ hết được. Và gặp ai cũng vui vẻ dừng lại, hỏi thăm đôi ba câu rồi mới chịu đi. Ông chồng lại rất vui tính với nụ cười hiền hòa thật dễ thương. Rồi dần dà, Bà bị đau, không còn nhớ gì, đi gõ cửa hết nhà này đến nhà khác, có khi quên cả lối về! Cuối cùng thì không còn đi được n
28/07/2017(Xem: 4414)
Sau những cơn nắng luộc da vào Hạ, trời Hà Nội có vẻ dịu hẳn, phố phừng dập dìu xe cộ. Căn nhà nằm sâu trong đoạn đường vừa khai phóng, đối diện với một cao ốc, tầng dưới là siêu thị đơn điệu vài mặt hàng không đủ cho khách vãng lai dán mắt nhìn. Căn nhà của cô Chung, trưởng đoàn từ thiện, là cứ điểm để nhóm Từ Tâm - Hiểu và Thương hàng năm vê đây làm nơi phát xuất chuyến lữ hành mãi tận vùng Tây Bắc, cận biên Việt-Trung. Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía đông của thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố 8 km. Đây là cửa ngõ để đi sang các tỉnh thành phía Đông như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên...
04/07/2017(Xem: 10502)
Từ hai ba tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng dành thì giờ ôn lại các bài học của Bụt Thích Ca trong tập phim Buddha, do nhà sản xuất Modi đưa lên mạng Youtube từ năm 2016. Khi được bạn bè giới thiệu cuốn phim này, tôi coi mấy đoạn đầu, rồi nhảy cách tới đoạn Buddha thành đạo (tập 34), và coi tiếp sau đó tập 41 tả cảnh Buddha về thánh Ca Tỳ La Vệ thăm gia đình. Đoạn 41 này rất hay, đạo diễn và tài tử đều diễn tảđược tình cảm của Buddha và bà vợ mà ông rất thương yêu trước khi đi tu.
02/07/2017(Xem: 5831)
Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích. Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạo nhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hành không quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]