Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngồi buồn.

10/04/201312:47(Xem: 5526)
Ngồi buồn.


NGỒI BUỒN

DƯƠNG NHƯ TÂM

---o0o---

Ðó cũng là tựa đề bài thơ của Nguyễn Duy, người viết bài này sau nhiều năm tìm kiếm, chắp nhặt nay mơi lượm được toàn vẹn. Tuy không phải là người chuyên đọc và phê binh hoặc giới thiệu thơ, càng không phải là người yêu thơ văn, nhưng ý nghĩa bài thơ đã thật sự gieo vào tâm khảm người đọc về một ý niệm – giá trị tuyệt vời, tạo nên sức sống cho bài thơ mà việc làm, tìm tòi của tôi – như vừa nói – xuất phát cũng từ đó. Mãi cho đến gần đây, qua làn sóng Ðài Tiếng nói Việt Nam, qua giọng ngâm của Nghệ sĩ Trần Thị Tuyết, khiến cảm niệm ai hoài, nhân tiết hội Vu Lan thêm rạo rực. Và tôi nhận thấy không thể không giãi bày sự cảm niệm riêng tư ấy.

Nhà thơ Nguyễn Duy có lẽ đi từ ca dao được mẹ ru bên cánh võng thử ấu thơ, nêu trong tâm khảm đã bật ra bao nỗi lòng bằng chính lời ru, và đã được lấy tựa đề cho bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”. Bài thơ được bắt đầu bằng sự sâu lắng hết sức thiêng liêng, mênh mông gợi lên cho ta một khoảng không gian rộng lớn, làm lộ rõ nét cô đơn của đứa con mồ côi vừa mất mẹ:

Bần thận hương huệ thơm đêm

Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn

Chân nhang lắm láp tro tàn

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.

Tại sao lại phải là “khói nhang” mà không là ánh nến mới có thể “vẽ nẻo đường kên Niết bàn”? Giữa khói nhang và Niết bàn trong bài thơ đủ nói lên tập quán dân tộc với chân lý Phật giáo, dù Niết bàn với ý nghĩa Phật học không là điều đơn giản. Theo tinh thần Hoa Nghiêm thì Niết bàn không xảy ra trong thế giới khách quan mà chỉ xảy ra trong thế giới nhận thức. Bằng con mắt tục đế, chúng ta dễ dàng hiểu được Niết bàn trong thơ Nguyễn Duy, có nghĩa là một vị trí – địa danh xứng đáng đối với tấm lòng hiếu thảo của người con dành cho người mẹ, nên chúng ta chấp nhận được. Và có lẽ như biết được ý nghĩa trên nên Nguyễn Duy phải nói “vẽ nẻo đường lên Niết bàn”. Nhìn thấy “chân nhang lấp láp tro tàn” là một hình tượng tất yếu về một kiếp đời thọ nghiệp; nó còn nói lên cái bóng, công ơn lao nhọc cả cuộc đời của mẹ một cách cô đọng, thay vì tác giả phải kể lể bằng nhiều hình ảnh khác như “cánh cò lặn lội...”v.v...

Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quan thao đội đầu

Rối ren tay bí tay bầu

Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.


Từ trước đến nay, tuy tự nhận mình là một người ít khi tiếp xúc với thơ văn, nhưng tôi vẫn chưa thấy có moọt áng văn thơ nào ca ngợi – tả tỉ mỉ về một người mẹ giàu sang, chân tay cắt móng gọn gàng, mắt mũi đầy ắp silicon đặc sệt; chỉ là những bà mẹ nghèo, tần tảo, chai sần da sạm với đôi quang gánh đè nặng bờ vai lao nhọc. Ai đã từng thấy được dây bí, dây bầu, dây mướp leo với vô số tay quăng bám chặt và rẽ ngọn trăm hướng để giữ cho thân mình đủ sức mang nặng những đứa con - những trái đậu lủng lẳng, lúc nào, cũng ghì nặng thân dây... mới cảm nhận được câu thơ của Nguyễn Duy đến nao lòng, và thầm thán phục sự ví von tài tình – tuyệt vời của nhà thơ. Không phải của đất nước ta vốn có truyền thống văn minh nông nghiệp, mà khi nói về “nhuộm bùn”, tức là làm ruộng, cuốc đất, trồng cây; đó chỉ là một sự hiểu biết, hàm sức về tình mẹ phương Ðông, muốn tự mình nuôi dạy con cái, chịu đựng tất cả lao nhọc để cho con khôn lớn; không dựa dẫm vào bảo hiểm, nhà trẻ, cấp dưỡng hoặc phó mặc cho xã hội, nhà trường. Màu nâu còn là màu của đất, mà đất thì được tắm mát bởi nhân duyên của bốn mùa nhiết đới vốn hằng gian khổ. Người học Phật còn “đi sâu” vào lòng đất hơn bằng tư tưởng tuyệt vời của Tâm địa quán; nó sinh ra tất cả và nó ôm ấp tất cả (Chúng sinh chi tâm du như đại địa, ngũ cốc – ngũ quả tùng đại địa sanh). Kể cả cái tâm của tam giới cũng chỉ là 3 tên của đất (Dĩ thử nhân duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa). Phải chăng do các yếu tố chân lý đó nên chư Tổ truyền thừa xứ ta xưa kia đã khéo chọn màu nâu để hàng Tăng lữ mặc, ngầm nhắc nhở về một duyên sanh, một ứng dụng tùy cơ cho đạo Phật Việt Nam.

Cái cò – sung chát – đào chua

Câu ca mẹ hát gió đưa về trời

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.

Những lời tiêu biểu trong các bài hát ru, còn là những kỷ niệm tuổi thơ, đưa vào trong miệng bắt đầu kể thứ gì đang nắm được trong tay, và còn mãi tiếc nuối, nên thay vì “cây cải về trời”, ta nghe như lời ru rất thiêng liêng phải được bay về trời, cao mãi, cao vút. Vì thế mà bàn chân ta dong ruổi với gói hành tràng mang theo đó là những lời mẹ ru; lỡ mai ta nằm xuống thì vẫn còn đó, còn hoài với đạo lý thế nhân: những lời ru.

Bao giờ cho đến mùa Thu

Trái hồng, trái bưởi đãnh đu giữa rằm.

Nhà thơ Nguyễn Duy chắc lúc tuổi thơ được thừa hưởng những kỷ niệm vui buồn dưới tàn cây trong vườn nhà, mùa nào thức ấy cho nên luôn nhìn được những quả trái trên cành mà mẹ dành chờ qua rằm cúng Phật, cúng tổ tiên hoặc đem bán đổi gạo. Riêng tôi, “những trái hồng, trái bưởi đánh đu giữa rằm” là kỷ niệm về một cách lễ nghĩa mẹ dạy “để cúng Phật – ông bà xong, mẹ cho ăn”, vì thế “đánh đu” của tôi có ngiax là thèm thuồng bởi những trái cây cúng Phật thường được mẹ chọn lựa trái to nhất, ngon nhất.

Bao giờ cho đến tháng Năm

Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm

Bờ ao đom đóm chập chờn

Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.

Những ý thơ này chắc rằng ai ai cũng đều có được diễm phúc tận hưởng. Dưới ánh mắt và trí tưởng tượng của tuổi thơ, ta nhìn vạn vạt đều có thật một cách dễ dàng và gần gũi. Sao trên trời làm sao mà đếm được, nhưng tuổi thơ đếm được (một ông sao sáng, hai ông sáng sao...)dù đó chỉ là đường vòng tròn không kết thúc, để đưa ta vào... giấc ngủ! Ðể rồi các thế hệ nối tiếp nhau, thay nhau mà tiếp tục đếm; đếm hoài cho đến khi qua tuổi trưởng thành rồi nhường lại cho đàn con mà ta tiếp tục ngồi vào vị trí của người mẹ. Cho nên:

Mẹ ru cái lẽ ở đời

Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn.

Dù trong nhận thức đã từng hiểu được giá trị đích thực của những chuẩn mực đạo đức cần thiết nơi mỗi con người, thế mà tôi vẫn phải giật mình khi đọc đến hai câu này! Quả thật, trong kho tàng hát ru của dân tộc, có câu nào mà không mang nặng một ý nghĩa nhân văn nào đó, kể cả những điều nhỏ nhất. Ở người mẹ Việt Nam sữa và hát có đủ đầy nuôi bao thế hệ khôn lớn, vỗ an bao nghĩa đậm tình sâu và đúc kết nên bản thiên trường ca tình mẹ bất tử. Ngày nay, có không ít em bé được lớn kên, được nuôi dưỡng từ sự ỷ lại và phó mặc; ru con bằng máy cassette mà trong đó vọng ra nào là giai điệu Pop – Rock – Disco và hiện nay là Rap, đẻ rồi các em này lơn kên khi bập bẹ đã thốt ra được nào là “Bai” – “Ok” – lớn lên chút nữa thì “Ta là Triển hộ vệ đây!”, “Ta là Ninza đây!”. Cho nên chính nhà thơ đã phải thốt lên, đầy nỗi lo lắng:

Bà ru mẹ, mẹ ru con

Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?

Chỉ có những đứa con được lớn lên mang trong mình cả xác lẫn hồn mẹ cho dù có phieu bạt góc bể chân trời vẫn không quên được nơi nào quê mẹ và vị trí đặt nôi võng khi xưa ta nằm. Ấy vaayjmaf niềm thương trọn vẹn đó vẫn như da diết, ai hoài:

Nhìn về quê mẹ xa xăm

Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa.

Ðể rồi nhà thơ chọn cau ca dao để kết thúc bài thơ như trả về cho đạo lý dân tộc một gia tài nguyên vẹn; lại nữa như muốn gợi ý với thế nhân rằng: dù thơ cac có hay đến thế nào đi nữa cũng không bằng chính lời ru mộc mặc khi nao, xem như sự kết thúc cũng là sự bắt đầu. Với tôi, đó còn là lời nhắn nhr với những ai đã chóng quên cội nguồn, mà thiếu vắng nó không còn là một giá trị văn hóa – nhân bản của một dân tộc”

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

TRUYỆN NGẮN VỀ THỜI SINH HOẠT ÁO LAM


---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2018(Xem: 3925)
Một cú điện thoại gọi đến vào giấc trưa im ắng đã làm cả nhóm sinh viên chúng tôi giật bắn cả người. Thằng Tiên, trưởng nhóm gia sư, vồ lấy điện thoại với vẻ mặt háo hức. Tiếng đầu dây bên kia: “A lô, xin lỗi … có phải nhóm gia sư trường Đại học Nha Trang không ạ?” “Dạ phải! Dạ phải!”, thằng Tiên vừa đáp vừa nheo mắt nhìn chúng tôi. “À, tôi cần một gia sư thật gấp!” “Kèm lớp mấy ạ? Môn gì ạ?” “Lớp 5, môn Toán. Con tôi nó thích học cô giáo, có cô không?”
19/10/2018(Xem: 12978)
Ở Ba La Nại xa xưa Trị vì là một vị vua lâu đời Vua sinh ra một con trai Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng Kiêu căng, bạo ngược, tàn hung Khiến người hầu cận, tùy tùng không ưa
18/10/2018(Xem: 4945)
Giữa tháng 11 năm 2007, khi tôi đang nhập chúng, An Cư Kiết Đông tại Làng Mai, Pháp quốc, chờ được thọ giới Sa-Di-Ni trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, thì gia đình gửi điện sang, cho biết đã tìm được một chỗ khá tươm tất theo nhu cầu và khả năng của tôi, nhưng phải trả lời ngay trong vòng 24 tiếng!
14/10/2018(Xem: 4102)
Sức chịu đựng của tôi thuộc loại ghê gớm lắm. Tôi có được, luyện được sức chịu đựng ấy là nhờ học từ chữ Nhẫn của đạo Phật. Nhẫn là chiến thắng. Nhẫn là thành công. Nhịn nhường là bản lĩnh, là dũng cảm. Nhịn nhường là cao thượng, là bao dung. Tôi đã từng ngồi im cả tiếng đồng hồ để lắng nghe bà chị Hai chửi vì cái tội coi lén nhật ký của bả.
10/10/2018(Xem: 4596)
Một bệnh nhân vào phòng mạch, khám bệnh. Bác sĩ niềm nở : - Bạn có khỏe không ? Đó là câu nói đầu môi chót lưỡi rất ư là lịch sự mỗi lần gặp nhau để thay cho lời chào hỏi thường ngày của mọi người ở cái xứ sở đầy ắp văn minh này. Riết rồi thành thói quen.
10/10/2018(Xem: 5611)
Trời đã vào thu rồi mà nắng vẫn còn ấm, những đợt nắng trong veo như mật ong rải ánh vàng long lanh trên ngàn cây nội cỏ. Tôi lại nhớ những ngày thu ở Huế, dù chỉ là mùa thu mà trời đầy mưa bụi bay bay và gió lạnh run rẩy khi đạp xe qua cầu Tràng Tiền thời đi học. Nỗi nhớ như sợi tơ trời lãng đãng, vật vờ bay lượn giữa hư vô chợt sà xuống vướng mắc nơi góc vườn kỷ niệm.
09/10/2018(Xem: 5032)
“Định mệnh không là Định mệnh”, lấy theo tựa đề của một độc giả, người tôi chưa từng quen biết và cũng là lần đầu tiên đọc tác phẩm “Người tình định mệnh” của Hoa Lan. Cám ơn người đọc này đã khai ngộ cho tôi, chợt nhớ rằng trong đạo Phật không có chữ “Định mệnh” mà chỉ có “Định nghiệp”. Gây nghiệp nào sẽ từ từ xuất hiện nghiệp ấy liền tay. Một dạng của nhân quả!
09/10/2018(Xem: 3724)
Thăm người nghèo, sống một mình và cô đơn ở Frankfurt, Đức Tôi đến châu Âu nhiều lần và nhất là Đức. Tôi yêu Đức và thấy đây là quốc gia rất phát triển, rất văn minh. Đồ dùng của Đức thì quá tuyệt vời. Ở Pháp còn thấy nhiều người nghèo, kể cả lừa đảo. Ở Ý còn thấy trộm cắp. Ở Bỉ thấy kẻ xấu, móc túi… Nhưng ở Đức thật sự thấy văn minh và bất cứ dùng thứ gì ở Đức cũng luôn rất yên tâm.
06/10/2018(Xem: 6028)
Ngày nay, cảnh khổ bàng bạc khắp muôn nơi, vì chiến tranh, xung đột, thiên tai do tham sân si, đố kỵ, hơn thua, được mất của biết bao nhiêu phàm nhân trong thế giới vật chất khắc nghiệt xô bồ khó chịu này mà ra. Nhan nhản người khốn khó đang ngày đêm trông chờ sự hỗ trợ của các mạnh thường quân bằng tịnh vật và tịnh tài để sống qua cơn bỉ cực. Nếu trong hoàn cảnh bỉ cực này của tha nhân, những ai có lòng từ mẫn chân thành chia sẻ tịnh tài hay tịnh vật dù ít dù nhiều tùy khả năng, thì việc bố thí nầy được xem như là Quảng Đại Tài Thí, như đã được Như Lai dạy trong Trung Bộ Kinh – 142: Phân Biệt Cúng Dường (Pali) như sau:
02/10/2018(Xem: 3990)
Tại nơi tịnh xá Trúc Lâm Thành Ba La Nại, mùa Xuân đã về Đất trời tĩnh lặng bốn bề Muôn hoa phô sắc sum suê trên cành Đàn chim vui hót lượn quanh Hương xuân phảng phất bên mành ngất ngây. Thế Tôn an tọa nơi đây Nhưng nhìn thấy cảnh đọa đầy phương xa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]