Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quê hương ở đâu ?

10/04/201312:40(Xem: 5752)
Quê hương ở đâu ?

dongque3_thuymac

Quê hương ở đâu?

Thu Nguyệt

1. Ba tôi

Vở kịch Dạ cổ hoài langđã làm rung động trái tim cũng như bài hát Dạ cổ hoài langđã làm “rụng rún” biết bao người! Tim và rún không nằm xa nhau mấy trên cơ thể, do đó những giai điệu làm “rụng rún” thường dư chấn sang trái tim.

Nói chi xa là đi tới tận nước ngoài như hai ông già trong vở kịch kia mới nhớ nhà, nhớ quê, nhớ nước. Chưa đầy 150 cây số từ Đồng Tháp lên Sài Gòn, đi tới bến xe Miền Tây là ba tôi đã nhớ nhà rồi!

Từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, chuyện nào cũng làm ba tôi nhớ nhà được! Chuyện nhỏ là chuyện mang dép và bỏ dép. Bốn giờ sáng, ba thức dậy loay hoay với việc mang đôi dép vào chân để đi ra bến xe đò, lên đất Sài thành cho nó ra vẻ con người lịch sự. Ba mang đôi dép vào, đi vài bước lại tháo dép ra, chậc lưỡi: “Thôi, ra tới bến xe hãy mang”. Lên xe, ba ngồi rút hai chân lên ghế và thỉnh thoảng đưa mắt dòm đôi dép nằm thừa thải dưới chân, lâu lâu thấy tội nghiệp nhúm da củ kỹ, đóng vá bằng mấy cây đinh (mà ba đã mua từ ngày ăn thôi nôi đứa con đầu lòng) nên lại thò chân xuống xỏ vô ngoe ngoe mấy ngón. Ba mong mau đến nhà con để đôi chân được giải phóng khỏi đôi dép.

Bước vào ngôi nhà trong thành phố, được đi bằng chân không, bỏ dép, thế mà ba cũng lại cứ loay hoay ngượng ngịu với hai bàn chân trần trên nền gạch sạch trơn, bóng láng. “Tình trạng” ấy có khi nó còn “ngặt” hơn là đi dép nữa! Ba là nông dân, không xa được mặt đất dù chỉ vài cen-ti-mét qua lớp dép kê chân, huống chi là lớp gạch Gra-mit cứng còng lạnh ngắt!

Vậy là nhớ nhà!

Đó là chuyện dưới chân, còn chuyện trên đầu: Ngước lên không thấy trọn một mảnh trời, toàn mái bằng, mái chóp và dây điện! Rồi chuyện xung quanh: Mắt nhìn đâu cũng thấy người, mà toàn là người lạ, ánh mắt nhìn không có chút hơi hớm hàng xóm láng giềng. Tai chẳng nghe tiếng gia súc gia cầm chim chóc… toàn nghe tiếng máy xe đủ loại hòa tấu kinh hồn dai dẳng đến tưởng chừng như âm thanh nhiễm xạ vào người! Và gió. Cái gió trời mang mùi đất cát, cây cỏ theo mùa, không hề léo hánh! Gió làm sao mà thổi nổi qua tầng tầng lớp lớp nhà cửa như rừng, như cỏ mọc vườn hoang! Chỉ có gió từ cái quạt máy phả đều đều, vô duyên lãng nhách, chán gần chết!

Vậy là nhớ nhà!

Đó là chuyện xung quanh, chưa đụng vô mình mẩy. Còn đây, chuyện tiếp cận với công nghiệp tiêu dùng: Bước vô nhà tắm, tắm xong, ba bước ra với bộ quần áo gần như ướt nhẹp! Tôi kêu: “Trời, sao ba không lau mình?” Ba tỉnh quẹo: “Cái khăn chàng bông (khăn choàng lông) nó mềm èo nhẽo nhợt, lau nhột thấy ù! Bữa đi tao quên đem theo cái khăn rằn”.

Vậy là nhớ nhà!

Nói tóm lại là đụng đâu cũng nhớ nhà, nhớ nhà mọi nơi mọi lúc! Dường như ba sinh ra là để cắm vào quê, cũng như cây lúa, chỉ có thể đứng trên đồng ruộng, nếu đem lúa trồng vào chậu trong nhà, lúa sẽ chỉ có thể là cây mạ già héo rũ, không thể nào thành cây lúa được!

  1. Tôi

Là con của ba, tự phân tích mình, tôi thấy có 40% là giống ba, 20% giống mẹ, số % còn lại là do ông bà tiên tổ, cộng đồng, bè bạn, và các hệ tư tưởng… kết thành. Mười tám năm loanh quanh xóm nhỏ, nền móng tâm hồn tôi không khác gì ba, dù thượng tầng kiến trúc của tôi đã được gia cố khá nhiều, bứt xa ba một khoảng đủ để được thành ngữ khen ngợi là “nhà có phúc”. Những ngày đầu tiên bước lên thành phố, tôi cũng có 40% cái kiểu nhớ nhà giống ba. Để thích nghi, tôi tự lắp cho mình một toa tàu, lúc vui thì kéo lúc buồn thì đẩy, dẫu sao cũng phải tiến lên trên đường ray hội nhập. Những lúc va vấp mệt mỏi, tôi bỏ lại toa tàu, đi… xe đò về xứ:

… “Đi đâu rồi cũng về đây

Dưới vòm tre thấy tháng ngày nhẹ bâng

Không muộn phiền, chẳng băn khoăn

Tóc buông, áo bỏ ngoài quần, chân không…

Nghêu ngao hát với ruộng đồng

Không không sắc sắc không không… tắng tằng…

Nhân gian ơi có biết rằng

Thế gian đâu cũng chẳng bằng nơi đây”.

Với nhân sinh, thế giới quan như thế, tôi mãi là con bé nhà quê giữa phố, đến “nằm mơ vẫn mớ lời dân miệt đồng”, do vậy trong tôi, ý niệm về quê hương hẳn nhiên chỉ là cái tỉnh Đồng Tháp 3.391 ki lô mét vuông! Mở rộng biên giới hết ga cũng chỉ trong vòng các tỉnh miền Tây; thân thiết nhất là ven bờ hai con sông Tiền, sông Hậu. Bạn thân, tôi cũng chỉ chọn chơi thân với dân vùng quê gốc. Không phải tôi ích kỷ cục bộ, nhưng có lẽ vì khả năng thu sóng của tôi hơi bị lạc hậu, rụt rè, do đó tôi không bắt được nhiều tầng sóng khác. (chỗ này phải mở ngoặc để nói về một cái gien lạc, có lẽ nằm trong 40% sau cùng - phần ông bà tiên tổ – nên tôi từ đỉnh đầu đến gót chân là dân Nam bộ, lạc loài khẩu vị lại nằm đất Bắc Hà! Thích ăn quả vải, dưa lê hơn trái xoài, chôm chôm…). Sống ở thành phố gần hai mươi năm, tôi chưa có một góc quen. Đường phố Sài Gòn dẫu mòn mấy chục đôi giày tôi vẫn đi như đang đến một nơi nào đó chưa từng đến. Ngay cả những lúc vui vẻ rong chơi, khi mà đến ngọn gió bất ngờ thốc bụi bay vào mắt cũng không làm tôi bực thì nhìn những gương mặt ngược xuôi qua lại trước mắt, tôi vẫn chẳng có nổi cảm giác gần gủi, quen thuộc. Hoặc khi sơ ý quên tắt đèn xi-nhan xe mình, có ai đó đi qua khẻ nhắc giùm, lời cảm ơn tôi thốt ra cũng không chuyển được gam màu ứng phó! Đôi lúc lòng từ bi và tính công bằng trổi dậy, tôi thấy thương và tội nghiệp thành phố vô cùng. Tôi có cảm giác thành phố là một nơi mà người ta chỉ đến và đi chớ không phải là nơi để ở. Tôi có một anh bạn cùng là dân nhập cư, anh kể: “Có cái tết anh kẹt việc, không về quê được, đêm giao thừa xách xe chạy vòng vòng mấy phố, thấy có khá nhiều nhà với ống khóa bên ngoài, hẳn là chủ nhà đã về quê”. Cần gì đi tìm những cái ống khóa, chỉ cần nhìn vào các bến xe, bến tàu vào những ngày cận tết thì thấy ngay được sự “ruồng bỏ” thành phố rồi! Tự dưng thấy thương thành phố quá! Cớ gì mà xa lạ thế hỡi phố xa phố xa

Vậy rồi chồng tôi mất vì một tai nạn giao thông ngay trên đường phố đông người chật chội. Sự ghẻ lạnh đối với thành phố càng thêm băng giá (nếu không nói là đôi khi mấp mé bên bờ ranh giới căm hận!) Không chỉ là giận cá chém thớt mà đúng hơn là đứt tay oán thớt! Thành phố từ nay vô phương xích lại gần tôi. Mỗi ngày, tôi ra đường với đôi mắt mang hình… cục nước đá. Nỗi vọng cố hương càng ầm ỉ thét gào trong từng giấc ngủ ngột ngạt bơ vơ…

Tóm lại, tôi là dạng cây cỏ, tôi sinh ra từ đồng đất, tôi có thể về thành phố đứng sang trọng trong những vườn hoa, làm màu xanh che đất cát cho hoa nổi bật; làm thảm cỏ bên đường, góp chút hồn cho đại lộ đỡ nặng nề xi măng hắc ín. Nhìn vào tôi, người ta có thể nghĩ đến những thảo nguyên bao la bát ngát hoặc những cánh đồng cỏ non xanh miên viễn trong thơ của Nguyễn Du, tôi không thể hòa nhập vào muôn hồng nghìn tía của thành phố, nhưng dẫu sao tôi vẫn ấm ức xanh tươi được trên mảnh đất đô thành.

  1. Bạn tôi

Rồi hoàn cảnh đưa đẩy, tôi kết thân với một cô bạn chánh hiệu dân thành phố. Những lúc ngồi sau lưng bạn, theo nó “đưa võng” qua các ngõ ngách Sài Gòn, nơi nào nó cũng thuộc như lòng bàn… làm việc của mình (vì nó làm nhân viên thư ký), tôi thấy phục nó quá! Nó có thể kể vanh vách cây me này chết đi sống lại hồi năm nào, góc đường này trước kia là quán bánh bèo nổi tiếng nay thành quán bún bò Huế nổi danh; cửa hàng quần áo may thời trang này mới phất lên từ ngày có bài báo nọ...vv…và vv… Nghĩa là phải máu thịt với Sài Gòn lắm mới nhớ rõ nhiều và cặn kẽ như vậy. Vào quán karaoke nó hồn nhiên gào hát, cơ quan tổ chức liên hoan, nó trèo lên sân khấu nhảy nhót sành điệu vô tư. Thỉnh thoảng rủ nhau đi ăn nhà hàng sang trọng, nó quát nhân viên phục vụ như người giúp việc ở nhà. Chạy xe ngoài đường nó lườm đến nhớ mặt các bác tài xe buýt trong khi tranh thủ vượt kịp đèn xanh. Có thể nhận biết người quen qua cái bảng số xe lấp loáng hồn nhôm thiếc. Biết quan sát để dừng xe ngay trong bóng râm khi đèn đỏ dù còn cách ngả tư hơn năm chục mét. Luôn miệng nhắc nhở tôi coi chừng bị kẻ gian giựt túi, móc bóp. Mười lần tôi cho tiền ăn mày, ăn xin, kẻ lỡ đường, hoàn cảnh…. thì đến chín lần nó phân tích cho thấy tôi bị lừa như thế nào; gia tài “câu chuyện đường phố” của nó đã vô tận mà còn liên tục được cập nhật. Thảm thương thay, hầu hết những điều nó nói đều có cơ sở thực tế, đều đúng và thậm chí nếu phân tích kỹ ra thì rất nhân bản mới chết chứ! Mới hay cái đúng và cái sai, cái thiện và cái ác như cỏ mọc chen nhau, mà chính những nơi như thành phố, mật độ ken dày càng làm ta khó phân biệt giả chơn. Tốt xấu chen vai thích cánh như bằng hữu và thậm chí đôi khi trở thành chiến hữu trong cuộc chiến quắp xã hội đi lên.

Dù thấy mình vô lý trong khi cứ cố tình không chịu công nhận rằng dân thành phố cũng rất chân thành, cũng có thể là những người bạn tâm giao còn tốt hơn nhóc đứa là dân miệt mình mà lăn dưa đá cá. Thế nhưng không hiểu tại sao trái tim tôi vẫn cứ không chịu hành xử công bằng. Bởi vậy, dù chơi với nhau rất thân, có lúc tưởng chừng như chị em ruột thịt, nhưng cứ hễ mỗi lần giận nhau là tôi lại nhìn thấy bạn hiện ra rõ ràng với bộ mặt dân thành phốlạnh lùng xa lạ! Chút tình bạn thân có vẻ vững bền liền đứt gốc như đang bị “thần đèn” Cẩm Lũy cắt móng chặt nền. Thiệt là đáng tội! May mà mỗi ngày chúng tôi đều gặp nhau vì cùng làm việc một phòng. Bạn tôi vẫn vô tư hồn nhiên với những cử chỉ ân cần, tấm lòng nhân hậu cỡi mở. Còn tôi thì không thể từ chối mâm cỗ nghĩa tình thịnh soạn ấy, vì bản thân đang đói khát, suy dinh dưỡng tình cảm nặng nề. Thế nhưng cứ mỗi lần ngồi vào mâm cỗ ấy, tôi luôn thấy áy náy không yên, như một kẻ ăn nhờ, ăn quỵt vậy. Người ta bảo rằng “Sói chết ba năm quay đầu về núi” không biết có thiệt không, chớ còn tôi… miệng còn ngậm cây tăm thành phố, đầu đã quay về phía làng quê! Tóm lại, khi chơi với bạn là người thành phố, tôi đối xử với bạn một cách “thành phố” còn hơn dân thành phố! Có lẽ đó là điều tồi tệ nhất, đáng chê trách nhất của tôi khi sống ở cái đất này!!!

Cháu tôi

Cháu là sinh viên năm thứ tư. Một hôm đưa tôi về nhà trong buổi trưa tan tầm nắng gắt đầy người, xe và khói bụi. Tôi nhăn mặt càu nhàu:

- Cái xứ gì mà ra đường cực như đi đày!

Cháu tôi cười qua lớp khẩu trang dầy bịt:

- Vậy mà đi đâu con những nhớ Sài Gòn đó dì!

Liền đó, chiếc nón bảo hiểm của tôi đập bốp vào lưng nó sau một cú thắng gấp. Hình như mối quan tâm của nó không nằm ở sau lưng, từ cái khẩu trang lại vang ra những lời thắm thiết:

- Con đi đâu, hễ về tới gần thành phố là thấy nao nao, thấy ánh đèn thành phố là con thấy mừng mừng làm sao dì ạ!

Để không bị nới lỏng sợi dây thâm tình ruột thịt, để chứng tỏ mình không quá xa cách với những suy nghĩ của lớp trẻ, tôi ứng phó bằng cách vay mượn thơ của lớp tiền bối:

- Con có nhớ nhà thơ Lê Anh Xuân không? Cái ông viết bài Dáng đứng Việt Nammà sách giáo giáo khoa văn có dạy đó… - Nói tới đây tôi chợt giật mình, chưa chắc gì cháu nó biết, bởi sách giáo khoa thời tôi và thời nó dẫu cách nhau mới có hai mươi năm, nhưng đã qua mấy lần đổi khác! Biết không thể bám víu vào cái “Tình nghĩa giáo khoa thư” (1)này nên không đợi cháu trả lời, tôi nói nhanh luôn - Ổng viết khi ở rừng, nhìn về phía thành phố, thấy ánh đèn sáng rực góc trời: “Cái quầng sáng bồn chồn thương nhớ đó/ Cứ đêm đêm thao thức giục ta về”….

Thấy tôi hưởng ứng, cháu hào hứng tâm sự tiếp:

- Dù lúc ở thành phố, ra đường ồn ào bụi khói bực mình, chỉ mong được đi đâu đó hít thở không khí trong lành cho mát phổi, nhưng khi đi xa, tự dưng thấy nhớ, thấy thèm nghe tiếng xe, thèm hít mùi khói bụi…

Lần này thì tôi im. Tôi chợt nhớ lại ngày xưa, hồi còn ở quê, mỗi lần có chiếc xe gắn máy chạy qua trên đường làng, cả đám con nít chạy ùa ra ngóng theo mút mắt, có đứa còn hít lấy hít để cái mùi khói xe để lại, bởi vì nó ngộ quá, hiếm có quá! (Trong đám, có đứa giờ đây đang làm thợ sửa xe ở ngã năm Chuồng Chó. “Đáng đời, bây giờ thì tha hồ mà hít khói nghen con!” - tôi nổi giận vô duyên, lẩm bẩm mắng nhiếc khi ký ức nhớ lại chuyện cũ!).

Thấy tôi im, cháu quay lại hỏi:

- Chắc dì năm lớn lên ở quê, không thấy thương thành phố như con đâu ha?

Lần này thì tôi hùng dũng gật đầu! Hình như đọc thấy vẻ không hài lòng của tôi qua ánh mắt còn dư âm câu mắng nhiếc ký ức vừa rồi, cháu nhẹ nhàng thanh minh:

- Ở đâu quen đó dì ạ. Dì và mẹ con lúc nào cũng thích về quê, còn con thì về quê mẹ cũng như đi về một vùng quê nào đó thôi. Con chỉ có cảm giác gần gũi khi về thành phố. Quê hương thực sự là nơi mà mình sinh ra và lớn lên của mình dì há!

Tôi cố thủ im lặng, vờ vô tình làm tuột chiếc khẩu trang để lộ nụ cười ngụy trang cho cháu thấy, để cháu không nghĩ là tôi đang phật ý. Cháu sinh ra ở thành phố, đang học nghành kinh doanh, cháu khoái không khí ồn ào, náo nhiệt của thành phố là phải rồi. Còn dì, (tôi thầm vênh váo tự kiêu kẻ sĩ) dì là nhà thơ, dì phải yêu cái không khí lãng đãng miền quê chứ! Nhủ thầm như thế, tôi âm mưu về nhà “phỏng vấn” đàn con có máu “nhà thơ” của mình, xem chúng sẽ trả lời ra sao. Lòng tràn trề hy vọng sang trọng, tôi về nhà hỏi con – những đứa trẻ đã sinh ra nơi miền quê nhưng lớn lên ở thành phố.

5. Con tôi

- Con thích quê hơn hay thành phố hơn? - Tôi hỏi đứa con gái bảy tuổi.

Trả lời:

- Con thích nơi nào mẹ thích!

Bảy tuổi thì có biết quê hương là gì. Tôi tự cười mình. Có lẽ mình bị ảnh hưởng cái tư tưởng của Mạnh Tử, thuộc vài câu Tam tự kinh “nhân chi sơ…”nên tôi nhầm rằng con nít cũng đã sẵn có “chủ kiến”, có Thiện – Ác. Tôi quay lại với tư tưởng câu thơ của một đồng nghiệp cùng thời: “Quê hương là chùm khế ngọt” phấn khởi hỏi cô con gái 14 tuổi. Trả lời:

- Về quê nghỉ hè thích nhất! Mát và tắm sông, tắm mưa đã đời…

- Nhưng con thích ở đâu nhất? – tôi nhắc lại câu hỏi, cố lái đúng chủ đề.

- Con thích về quê nghỉ hè rồi lên thành phố đi học với bạn.

Cái cô giữa này đúng là ở giữa! Trả lời mãi không ngả ngũ được. Tất cả niềm hy vọng dồn vào cô con gái lớn – cô con gái có tâm hồn lãng mạn nhất, cũng đang võ vẽ làm thơ:

- Còn con, con thích ở đâu nhất hở Dạ Quỳnh?

Con bé tuổi mười bảy nhạy cảm, nó rất hiểu lòng tôi, phần nào biết tôi đang mong muốn nó trả lời như thế nào, nhưng với bản chất trung thực giáo điều mà tôi đã tưới tăm vun bón lâu ngày dài tháng cho con, nó ngập ngừng bày tỏ:

- Con rất yêu quê của mẹ (Tôi chú tâm vào ba chữ “quê của mẹ” câu đó đã gián tiếp bày ra một vế khác tồn tại song song: “quê của con”!) - Rất nhanh thấy vẻ mặt thất vọng của tôi, con bé vội vàng lấp liếm: - Quê hương là nơi chôn nhau cắt rún của mình, con đã sinh ra ở quê, đã đi học những ngày đầu tiên (mẫu giáo) ở đó, con rất nhớ nếu lâu không được về. Nhưng quê phải gắn liền với những người thân. Người thân của con là ông ngoại, là dì sáu, là các anh chị em…. Nhưng giờ đây ông ngoại thì mất rồi, dì sáu và các anh chị em kẻ theo chồng, người cưới vợ, tản mác làm ăn nơi xa hết, con về quê thấy hổng còn vui…

Phải rồi. Người ta chỉ gắn bó với đất đai làng mạc khi được sống lâu ngày ở đó. Hương vị màu sắc của dòng sông, bờ ruộng, khoảnh vườn, đất cát mới thấm vào người. Con tôi chỉ sống ở quê có bốn năm tuổi nhỏ, chân chưa giẫm được bao nhiêu trên mặt đất, sự gắn bó mới chỉ dừng ở vị trí trên tay những người bồng ẳm nó, những người ấy không còn thì đất hoá lạ xa. Tôi thông cảm với con, ngồi lặng. Thấy tôi hình như có phần tỏ ngộ, mười bảy tuổi thỏ thẻ nói tiếp:

-Bạn con có mấy anh chị đi học nước ngoài, bạn ấy hỏi anh chị có nhớ nhà không, anh chị bảo: “Nói em nghe điều này em đừng mách lại với bố mẹ nhé. Chẳng có nhớ nhà, nhớ quê như các ông bà nhà văn nhà thơ sướt mướt đâu. Thỉnh thoảng cũng có nhớ, nhưng cuộc sống trước mắt thu hút hơn. Chỉ thi thoảng nhớ lại khi nào gặp chuyện buồn phiền thất bại thôi, rồi cũng vèo qua! Nhưng ai hỏi thì phải nói là da diết lắm, kẻo người ta chửi mình là đồ mất gốc…” .

Tôi lắc đầu, cắt ngang lời con:

- Đối với những hòn đá đang lăn ấy thì nói làm gì! Đến khi nào bị va đập, bào mòn, nằm trơ bên bờ suối cạn, đá thành sỏi rồi mới nát tan nhớ núi! – Tôi nói luôn một mạch như trút nỗi bực tức, chợt nhớ lại con của mình, tôi vội hỏi con: - Thế còn con? Con có nghĩ như vậy không?

Con gái tôi trả lời rất thật:

-Con cũng chưa biết nữa!

Ờ nhỉ! Quê hương là khái niệm chỉ thực sự được kích hoạt khi người ta phải xa nó. Sao tôi lẩn thẩn vậy? Tuổi thơ ở đâu thì quê là ở đó. Đối với những đứa trẻ không có tuổi thơ thì quê chỉ là khái niệm rỗng! Thế nào là tuổi thơ? Hình như có một số người trên hành tinh này không có tuổi thơ mà chỉ có những ngày tuổi nhỏ.

Bên tai tôi văng vẳng cô buồn lời một bài hát: “…ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó… trong giấc mơ tôi vẫn thầm mơ…”.

Thôi, miên man làm gì cho mệt, Mỗi con người là một tiểu vũ trụ, phân tích làm chi cho phiền! Tôi bước ra thắp một nén nhang trên bàn thờ Phật, mong hương khói mong manh đem đến chút vững chải an bình. Bất chợt lại phất về trong đầu câu thơ của Nguyễn Bính:

Quê tôi có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm…

Tôi ngước mắt nhìn lên tượng đấng Từ Bi, gương mặt con người Ấn Độ ấy sao lại thân thương gần gũi quá chừng! Ơ kìa, bất đồng ngôn ngữ, xa xôi thế mà sao mình thấy gần như vậy? Còn những người – đến như cô con gái mười bảy tuổi núm ruột kia lại có “quê của me” và “quê của con”? Tại sao tôi lại muốn nó cũng yêu quê theo cái kiểu của mình?

Khi cái ngãvi tế được mặc ấm bằng chiếc áo đạo đức thì tàng hình thật là khó thấy. Vòng vo mấy cũng trở về đúng thực chất mà thôi.

Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế… (Bát Nhã tâm kinh).

______________________________________________________

(1): Tựa truyện ngắn của nhà văn Sơn Nam

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4783)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6776)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4947)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10205)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3694)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4920)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7980)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4316)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13619)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]