Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tách Trà Còn Nóng.

10/04/201312:37(Xem: 4454)
Tách Trà Còn Nóng.


Chen_Tra_Tao_Khe_13
Tách Trà Còn Nóng

Thích Tín Nghĩa
---o0o---

Hôm nay Chủ nhật, ngày 14 tháng 10 năm 1990 tức là ngày 26 tháng tám năm Canh ngọ; tôi trang hoàng một bàn thờ đơn giản trước chánh điện để làm lễ tưởng niệm Hòa thượng Thích Thiện Minh lần thứ 12; trước ngày 17-10 là ngày mà Ngài đẽ đem cái thân xác vô thường để đổi lấy cái Tự do, Công bằng, An lạc cho Dân tộc và Đạo pháp trong ngục tù Cộng sản Việt nam.

Ngày giỗ của Ngài năm nào tôi cũng nhớ và cũng chưng dọn bàn thờ để được đảnh lễ trước di ảnh của Ngài. Có năm thì làm đông đảo có Phật tử, tín đồ đến tham dự, có năm thì tôi làm khiêm tốn nhưng không kém phần trang nghiêm. Tuy thế, chưa năm nào bỏ quên. Những lúc đi chứng minh, chủ tọa Đại hội cho tổ chức Gia đình Phật tử, tôi đều khuyến khích anh chị em trong tổ chức nên thiết lễ tưởng niệm ngài Thiện Minh và hiệp kỵ cho hầu hết anh chị em Huynh trưởng và đoàn sinh trong Gia đình Phật tử quá cố.

Mỗi một lần làm lễ tưởng niệm như thế, một vị Huynh trưởng đại diện thường đọc điếu văn cả. Năm nay quá bề bộn công tác Phật sự, nên không điếu văn, cũng không quy tụ các Gia đình Phật tử địa phương cùng đến tham dự được.

Sau khi đảnh lễ Ngài chín lạy xong, tôi quỳ xuống trước di ảnh và cung kính pha tách trà để cúng dường.

Nhìn tách trà đang nóng, đang bốc hơi và đang từ từ đầy lên; tôi hồi tưởng những năm về trước đây khi còn ở quê nhà và Ngài còn mang cái xác thân hữu hạn ấy trên trần thế nầy.

Cuộc đời của tôi mặc dầu theo làm thị giả Ngài cũng nhiều lần khi còn là một chú tiểu; nhưng, khi bắt đầu lớn lên và biết khôn thì tôi được cái diễm phúc khó quên ba lần theo sát với Ngài.

* Lần thứ nhất 1965:

Sau khi cách mạng 01-11-1963 thành công, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất ra đời. Ngài là vị Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Thanh niên, Sinh viên, Học sinh và Gia đình Phật tử. Ngài đi thăm đó đây trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt nam. Nơi nào có tổ chức Thanh thiếu niên, có tổ chức Gia đình Phật tử là Ngài đều có mặt. Tuyến đường cuối cùng là Thừa thiên và Quảng trị (Quảng trị là sanh quán của ngài).

Chuyến ra Huế ngài ở lâu nhất. Ngài đi thăm hầu hết các Tổ đình. Ngài cùng chư vị Đại tăng thọ trai tại Tổ đình Trúc lâm. Tôi làm thị giả. Trong bữa cơm đạm bạc ấy, chư Đại tăng cùng hàn huyên với nhau qua câu chuyện Pháp nạn 1963. Câu chuyện khi bổng khi trầm. Tôi thỉnh thoảng lại phải quanh để hầu cơm quý ngài. Khi đến sau lưng Thượng tọa Thích Thiện Minh, tôi đưa tay ra đỡ cái chén để đơm cơm, Ngài nhìn tôi miệng mĩm cười rồi bảo:

“Các chú cố gắng lo tu học nhiều đi, các Thầy lớn bây giờ phải gánh vác việc Giáo hội từ trung ương đến địa phương, nên rất ít có thì giờ để trực tiếp giảng dạy như ngày xưa được. Các chú nên theo những gì chúng tôi đãlàm, đang làm để mai sau thay thế chung tôi mà lo cho Đạo, cho Dân và cho Tổ quốc, ...”.

Tôi chỉ nghe được đến đây thì một sư huynh trong chùa nhờ tôi chỉ cách pha trà. Bữa cơm đạm bạc ấy vẫn diễn ra trong bầu không khí đầy thiền vị của chốn già lam Trúc lâm.

Sau giờ nghỉ trưa xong, tôi tiếp tục hầu trà và các Ngài cũng từ từ lên xe về lại Từ đàm.

* Lần thứ hai:

Pháp nạn 1966 lại diễn ra một lần nữa. Chư Tăng Ni và Phật tử phát nguyện tự thiêu thân để cúng dường cũng như để bảo vệ Chánh pháp. Thượng tọa Thích Trí Quang vào Tỉnh đường để tuyệt thực. Thượng tọa Thích Thiện Minh lại phải vào Sài gòn để trực tiếp điều khiển cuộc tranh đấu. Trước khi ra đi, Ngài cũng dùng cơm với chư Đại Tăng ở Tổ đình Từ đàm - Huế và tôi cũng được làm thị giả.

Trong bữa cơm nầy, Ngài cũng trong cốt cách ung dung tự tại của một thiền sư. Tuy thế, thỉnh thoảng Ngài cùng với chư Đại Tăng phải thở ra những giây phút não nề cho vận nước và của Đạo pháp.

Ngài bảo nhỏ:

“Chúng ta nào có ưa tranh đấu hay giành quyền làm gì, chúng ta chỉ muốn làm sao Dân thì được no cơm ấm áo và có một trình độ văn hóa trung bình. Còn Đạo pháp thì được tự do bình đẳng như nhau.”.

Bữa cơm chưa xong, một công điện của Giáo hội trung ương đánh ra, nội dung ra sao thì tôi không được biết. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ là cần Thượng tọa Thiện Minh vào gấp Sài gòn. Quý Đại Tăng từ giả nhau, tôi theo chân bổn sư vào lại Trúc lâm.

Chính phủ dân cử được thành hình như nguyện vọng của tòan dân và Phật giáo. Thượng tọa trở lại cố đô Huế để thăm. Phật đản 1971 lại trở về với người con Phật. Tôi lên đường làm Sứ giả Như lai để về chứng minh và thuyết giảng các lễ đài thuộc quận Vinh lộc theo sự yêu cầu và thỉnh mời của Thượng tọa Thích Lưu Đức, lúc bấy giờ là tọa chủ Túy vân Quốc tự và cũng là Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quận nầy.

Sau ba ngày đại lễ đã xong, tôi trở lại Từ đàm để tường trình công tác Phật sự trong những ngày qua lên tỉnh hội. Xe đi ngang qua trường Quốc học, mọi người xôn xao chạy lui chạy tới và hô lớn:

“Tự thiêu, thầy tu tự thiêu”.

Trong cảnh ồn ào náo nhiệt ấy, đa phần là tuổi trẻ cứ chạy Honda lung tung. Nhóm nầy hoan hô, nhóm kia đá đảo.

Anh Phan Văn Gái, một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà là Huynh trưởng của Ban Hướng dẫn GĐPTVN tại Thừa thiên - Huế, nói lớn:

“Cái gì còn có đó, còn có lệnh thượng cấp là Giáo hội, các anh không nên làm loạn. Làm như vậy là bị bọn Cộng sản nằm vùng lợi dụng. Làm vậy là có lợi cho Cộng sản. Các anh phải vâng lời và tuân theo chỉ thị của Giáo hội, các anh phải ...”

Tôi chỉ nghe được đến đây mà thôi, vì người quá đông. Câu nói của anh Phan Văn Gái rất có giá trị. Tuy thế, sau khi anh bị đi cải tạo, người ta đem câu nói ấy ra tại trại một lần nữa. Và anh đã đem cái dũng của Phật giáo ra để xác nhận là anh đã nói như vậy.

Tôi về đến Từ đàm thì mới biết chú Sa di Chơn Thể tu tại Tổ đình Tường vân đã phát nguyện tự thiêu để cầu nguyện hòa bình, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn và cho dân tộc sớm được no cơm ấm áo. Một ngày bố tát của Chư Tăng bản tỉnh Thừa thiên tại Tổ đình Linh quang, trước khi lễ Thượng tọa Thích Thiện Minh xin chư Tăng có một vài lời giải thích việc làm của Giáo hội trong những ngaỳ thán gvừa qua.

Trước chánh điện Linh quang, trước chư Tăng, trong sắc phục của Như lai với chiếc kính màu đen, với chiếc gậy chống bên cạnh. Ngài lúc nào cũng phải chống gậy vì bị Tổng thống quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu cho nhân viên ném lựu đạn để ám sát Ngài, nhưng Ngài chỉ bị thượng nặng ở bàn tọa chứ không chết. Vì thế, Ngài ngồi thấp không được mà phải đứng hàng giờ để nói chuyện.

Cũng vì Ngài bị bể bàn tọa nên tờ Sóng thần đã đăgn đăng hàng tít lớn ở trang đầu rất tiếu lâm do Chu Tử viết có câu như sau:

- “Thượng tọa bể bàn tọa”.

Nhưng sau đó, ông nhà báo nầy có tên là Chu Văn Bình với bút hiệu Chu tử cũng tranh đấu, cũng xách bị xuống đường rồi cũng bị nhà cầm quyến đương thời đàn áp.

Luật nhân quả đến với ông ta là bị thương ở mặt, rồi cũng bị quần chúng đặt lại một vế đối để đối lại như sau:

- “Văn bình sức miệng bình”.

Trong dáng đứng khấp khỉnh nhưng rất uy nghi, Ngài chậm rãi nói như sau:

- “Kính thưa quý thầy, chúng ta là hàng đệ tử Phật, chúng ta lại là con dân nước Việt, chúng ta không thể làm ngơ khi đất nước điêu linh, dân chúng lầm than và đạo pháp lâm nạn.

Vấn đề tự thiêu của chú Sa di Chơn Thể là một sự hinh sinh vô cùng cao đẹp. Rất tiếc là chú hinh sinh còn quá trẻ, chưa đến lúc phải hy sinh thân mạng như thế. Tôi thưa với các thầy trẻ hiện diện hôm nay rằng: Việc gì cũng phải suy nghĩ chín chắn, còn có Giáo hội, còn có chúng tôi. Việc đất nước và đạo pháp là việc chung, rất trọng đại. Một ngày nào đó, các thầy các chú cũng phải thay nhau gánh vác. Lớp nầy nằm xuống thì lớp kia đứng lên. Lúc nào cũng đem, tâm nguyện tu hành và lợi tha mà hành hoạt thì Phật tổ sẽ gia hộ cho chúng ta, hồn thiên sông núi cũng chứng tri cho chúng ta.”.

Vì còn thì giờ dài để chư Tăng làm lễ Bố tát, nên Thượng tọa thăm hỏi vắng tắt và từ già để đi vào thăm bổn sư là Hòa thượng Đệ nhị Tăng thống cùng Tổ đình Thuyền tôn.

Trong lúc đi cùng gồm hai xe. Xe trước do cố Thượng tọa Thích Thiện Lộc làm tài xế chở Ngài Hòa thượng Thích Thiện Siêu, xe sau do Hòa thượng Thích Mật Hiển tự lái lấy, tôi cũng được tháp tùng làm thị giả.

Xuống xe, các ngài từ từ tiến về cổng chùa. Thượng tọa Thích Thiện Minh đã than:

- “Bậy thiệt, răng Ôn lại cho xây cái hồ ngay trước chùa sâu như cái hố rứa không biết?”.

Thượng tọa Thiện Lộc trả lời:

- “Thiện Tấn xây, chứ ai nữa.”

Các Ngài chỉ thở dài và cùng vào hầu Ôn Thuyền tôn. Trà là xong xuôi, Ngài cùng với Hòa thượng Thiện Siêu thưa chuyện với Ôn như sau:

“Ôn cho đào cái hồ trước cổng chùa như rứa, không có lợi cho Tăng chúng, không có lợi cho môn phái lắm đó.”.

Ôn Thuyền Tôn day:

“Cái chú Thiện Tấn, nó xây đó. Tôi nói mà nó không chịu nghe. Nó nói, nó xây hồ Quán Âm.”.

Quý Ngài đi thăm trong chuyến ấy cũng đồng ý là không nên đào sâu như thế. Cuối cùng là cái hồ bị bỏ dở.

*Lần thứ ba 1976:

Sau khi Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam. Tất cả phải lập lại cuộc đời, trong đó có Tăng Ni. Tôi cùng với chư Tăng Giáo hội Đà Nẵng và một số Phật tử khác đứng ra lập một tổ hợp xe đạp lấy tên là Tổ hợp Đoàn kết. Thượng tọa Thích Minh Tuấn là Giám đốc, tôi làm Quản lý. Vì công tác chung nên phải thay phiên nhau vào Sài gòn để mua vật liệu. Tôi được đề cử đi trong chuyến thứ ba thượng tuấn tháng 6-1976.

Ở lại hai ngày tại chùa Già lam. Tôi được Hòa thượng Thích Trí Thủ cho phụ làm nấm với thầy Nguyên Giác, tức thầy Nguyễn Khắc Dũng cùng học ban Tú tài năm xưa (bây giờ đang ở tù với thầy Trí Siêu và Tuệ Sỹ).Trời về chiếu, Thượng tọa Thích Thiện Minh đến thăm Ôn Già lam và tu viện. Khi nghe Thượng tọa đến, Hòa thượng đã mặc áo vàng chế trà sẵn để đãi Thượng tọa.

Nhưng không biết tại sap khi Thượng tọa đến gần cây vú sữa và tháp chuông của Già lam, Ngài đứng lại. Trong lúc ấy, các thanh niên Tăng từ từ bao quanh Ngài. Ngài ngồi trên bậc gác chuông để nói chuyện với anh em Tăng trẻ. Ngài nói hết giờ nầy qua giờ khác, mặc dầu Hòa thượng đã cho chú thị giả cho ra mời hai ba lần.

Ngài ung dung tự tại và chậm rãi nói nhu sau:

-“Đất nước và Đạo pháp còn gánh chịu nhiều cam go hơn nữa”.

Ngài nói chưa hết câu thì một vị Tăng trẻ thưa:

- “Thưa Thượng tọa, hay Thượng tọa nên tạm lánh ra nước ngoài một thời gian, sau đó tìm cách xoay xở. Dù sao ở bên ngoài cũng có thì giờ tự do hơn.”.

Vị Tăng trẻ nói đến đây, Ngài nói tiếp ngay:

- “Các chú phải biết, Thầy đi ra ngoài lúc nào cũng được. Tuy nhiên, Thầy không thể bỏ Giáo hội, bỏ Đạo pháp, bỏ quý Thầy, bỏ Dân tộc và bỏ Quê hương trong lúc nầy được. Lúc nầy là lúc mình phải có trách nhiệm. Nếu cần đổi mạng sống để có tất cả như Thầy vừa kể, Thầy cũng an tâm hoan hỷ. Các chú phải biết: ra ngoài là mình nhục nhã lắm. Họ sẽ xem mình ra gì nữa. Mình không thương dân mình thì làm sao họ thương dân mình”.

Câu chuyện anh em Tăng trẻ thưa qua, Thượng toạ dạy lại. Thượng tọa nhắn nhũ rằng:

- “Các chú cố gắng mà thương Đạo, thương Quê hương dưới mọi hình thức. Ai còn tu hay không, còn giữ được áo cũng thế cả.”.

Anh em có mặt trong chiều hôm ấy chỉ biết im lặng và ngoan ngoãn cúi đầu nghe những lời giáo huấn đó.

Thượng tọa ngồi tâm sự với anh em mất ba tiếng đồng hồ. Cuối cùng Hòa thượng Thích Trí Thủ phải đích thân ra mời và trên tay còn có một tách trà còn nóng. Thượng tọa thương kính trước cung cách của Hòa thượng Thích Trí Thủ như thế, Ngài đành từ giả anh em Tăng trẻ.

Đó là lần cuối cùng của đời tôi được gặp Ngài. Ngài mai tôi trở lại Đà Nẵng và vài tháng sau, tôi từ giả Đà Nẵng và trở về Huế để hầu hạ Bổn sư.

Một tin sét đánh ngang tai, khi tôi nghe đài BBC cho hay là Thượng tọa Thích Thiện Minh, một chính trị gia lỗi lạc của khối Phật giáo Ấn quang đã bị nhà cầm quyền Cộng sản Việt nam bức tử trong lao tù tại Sài gòn.

Cũng từ đó, tôi tìm đường lánh nạn ra hải ngoại đến Denver, tôi tại dựng đoàn Thanh niên Học Phật Thiện Minh. Ở Lyon, Pháp quốc, Thượng tọa Tánh Thiệt cũng lập ngôi chùa mang tên Thiện minh. Ở California, Gia đình Phật tử cũng lập miền Thiện minh. Và hằng năm, tất cả những ngôi chùa Việt nam ly hương trên thế giới cũng tưởng niệm Hòa thượng Thích Thiện Minh, trong đó có Tổ đình Từ đàm Hải ngoại với tách trà còn nóng để tưởng nhớ đến hạnh nguyện vô úy của Ngài.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20313)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3882)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8410)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7983)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9481)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4740)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4078)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3785)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]