Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng chuông triêu mộ.

10/04/201312:32(Xem: 4350)
Tiếng chuông triêu mộ.

Tiếng Chuông Triêu Mộ
Võ Hồng



Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc :

Thấy nguyệt tròn thì kể tháng

Nhìn hoa nở mới hay xuân.

Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gở từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch. Cuốn lịch phổ biến trong dân gian là phiên chợ. Như ở vùng tôi, chợ Hôm họp mồng 1, mồng 6, 11, 16, 21, 26. Tiếp tới chợ Giã : mồng 2, mồng 7, 12, 17, 22, 27. Rồi chợ Đèo : mồng 3, mồng 8, 13, 18, 23, 28. Chợ Thành : mồng 4, mồng 9, 14, 19, 24, 29. Chợ Sen : mồng 5, mồng 10, 15, 20, 25, 30 hay tháng thiếu thì 29.

Với nhà Chùa thì ngày rằm được báo hiệu bằng mặt trăng. Tăng Ni nhìn trăng mà biết tháng, nhìn hoa mà biết mùa, vì các Chùa chiền đều nằm xa xóm làng, nằm ở chân núi hay lưng chừng núi, nằm ở cánh đồng heo hút xa xôi : Chùa Đồng Mạ, chùa Đồng Tròn, chùa Đồng Tranh, chùa Bảo Sơn, chùa Đá Trắng. Có cây xanh bao phủ xung quanh, có hồ sen, có chậu hoa, luống hoa trong sân, trong vườn. Hoa quí phải nở theo mùa như cúc, như mai..., hoa bình dân nở quanh năm như cây bông điệp, thân mạnh như cây keo, cây táo, mỗi khi có cúng k� bà con trong xóm lên chùa xin vài nhánh. Nhà quê không có lệ mua hoa cắm bình. Không dư tiền. Không ai dám nghĩ đến việc mua hoa, nên không có người bán hoa. Nhà chùa càng thêm gần gũi thân thiết với người nghèo.

Chùa nằm ở chân núi thì người đi đường ghé chân nghỉ mệt, người lỡ bộ đường có thể ghé nghỉ qua đêm. Nhà chùa nằm ở cánh đồng thì anh đi cày, chị đi cấy, trẻ chăn bò ghé xin nước uống, mượn chỗ nằm nghỉ lưng ở hiên sau, ở chái liêu. Cửa tam quan suốt ngày không đóng.

Thánh đường nhiều tôn giáo thường đi theo sát tập thể quần chúng, nhằm hoàn thành công tác mục vụ. Chùa chiền Phật giáo thì không. Như cố ý lánh xa, như gắng tìm một thâm sơn, xích gần lại với thiên nhiên, núi rừng, nên khi người tìm đến thì đồng thời cũng là dịp người gắn với thiên nhiên. Cùng với tiếng chuông và tiếng tụng niệm, màu xanh của cây lá, sự tĩnh mịch của đá của đất, sự bao dung của khoảng rộng trời cao cùng góp phần giải khổ, cùng nhẹ thổi niềm an vui, niềm hy vọng, niềm tin.

Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc.

Trong thời gian làm nghề dạy học, tôi có dạy ở một trường trung học Bồ đề, được dạy cho các Tăng Ni. Lúc vãn niên, mỗi khi có vị Tăng Ni nào đến thăm là tôi dạy đứa cháu ngoại vốn rất cứng đầu nghịch phá phải đứng nghiêm thủ lễ, chắp tay cúi đầu mà "A Di Đà Phật". Nó tuân lời, không miễn cưỡng. Tôi đã hiểu đúng tâm lý màu áo lam áo nâu, trang nghiêm thanh đạm, giọng nói khoan hòa, cử chỉ từ tốn... đã chinh phục nó.

Phần tôi, mỗi lần có Đại đức hay Ni cô tới thăm, khi ra về tôi xin phép được đưa tiễn đến tận cổng, ra lề đường rồi chắp tay cúi đầu xá nhiều cái. Vì Đại đức, Ni cô thường là học trò cũ, tôi phải giải thích :

Tôi muốn biểu lộ sự tôn kính đối với một vị tu hành khổ hạnh. Cho dầu vị ấy trẻ. Tôi biết nhiều người đang nhìn chúng ta, và xã hội chung quanh thì đang ùn ùn nhiều tệ nạn, thói hư tật xấu.

Đạo Phật hiện diện trầm lặng trong ta. Câu chuyện năm người mù sờ voi, tôi đọc hồi học tiểu học, trong cuốn sách tập đọc viết bằng tiếng Pháp, sau này mới biết đó là truyện cổ Phật giáo. Truyện người đàn bà có con chết, khóc lóc van lạy xin Đức Phật cứu sống con. Phật dạy : "Hãy lấy tro bếp nơi nhà nào không có người chết, đem về đây ta sẽ cứu cho". Truyện Mục Kiền Liên, ở một kiếp nào đó là một người mê vợ đẹp. Vợ thuê người dắt mẹ Mục Kiền Liên đem bỏ trên núi cho chết đói, nhưng bà cụ dẫu mù mắt cũng lần về được. Lần này vợ sai chính Mục Kiền Liên dẫn mẹ lên núi và bắt phải đánh cho chết. Nào ngờ Mục Kiền Liên vừa đập một gậy thì mẹ kêu lên : "Con ơi, chạy lẹ đi ! Kẻo cướp nó đánh chết !".

Đạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh của ông láng giềng phía sau nhà. Bốn giờ sáng, bà con khu Hồng Bàng - Xóm Mới nghe tiếng chuông của chùa Linh Thứu. Bà con xóm Mã Vòng - Phường Củi nghe tiếng chuông chùa Long Sơn. Bà con Đồng Nai nghe tiếng chuông Phật Học Viện. Những bà con phải sống xa quê hương, ngoài nỗi nhớ cô bác họ hàng, ngôi nhà tổ tiên, khu vườn cây lá, ắt có lúc chợt nhớ những hương thơm của hoa bưởi hoa cau, tiếng con trâu, con nghé ọ kêu mẹ, tiếng mái chèo khua nước trên sông, tiếng gà gáy vang lại từ thôn xóm xa..., và tiếng chuông chùa.

Những năm sau này tôi có nhận dạy ở lớp chuyên khoa của Viện cao đẳng Phật Học miền trung. Đi từ nhà đến Phật Học Viện, tôi thẩn thờ đếm bước một mình trên con đường đất đỏ uốn lượn ở đầu núi. Những bụi cây mọc theo ven lối đi, không hàng lối, mạnh ai nấy mọc.. Những bụi cây âm thầm. Những doi đá nằm lấn ra, những khe suối khoét lõm vào. Tiếng chim nói chuyện với nhau chi chích trong các bụi rậm, ở trước mặt, ở bên phải, bên trái. Mùi thơm của lá, của hoa thoang thoảng. Vừa giã từ thành phố trong năm phút, mắt tôi, tai tôi đã được nghỉ ngơi trong khung cảnh hoang sơ này.

Mỗi tuần một lần như vậy, tôi được gần gũi với thiên nhiên, và tâm hồn tôi bỗng được buông xả, nhẹ nhàng. Lắm lúc tôi quên mất hiện tại mà trở về hồi nào không hay, cái tâm trạng của một đứa nhỏ mười tuổi, mười hai tuổi, say mê màu xanh của lá, màu trắng màu vàng của hoa và mùi thơm ngai ngái của nhựa cây.

Con đường càng gần đến Phật Học Viện càng thêm âm u râm mát. Những cây cao lặng yên tỏa bóng hiền lành. Tôi leo lên con dốc nhỏ, bước qua cái cổng gỗ. Nơi đây bắt đầu giang sơn của các bụi hoa và những thân cây có danh tính. Những cây quỳnh lá xanh óng ả. Những giò phong lan đong đưa trên cành cao. Bụi trúc lá nhảy lăn tăn theo cơn gió dưới đồng thổi lên. Những chậu hoa tỉ muội, hoa đơm đỏ thắm từng chùm.

Tôi không phải là người văn cảnh, không phải là khách nhàn du, dưới tay tôi là một cặp sách. Tôi sắp có hai giờ dạy, buổi học bắt đầu bằng ba hồi niệm Phật, và chấm dứt bằng bốn câu kệ :

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ĐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên : "Đức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao".

Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả.

Như vậy, những buổi chiều thứ sáu đối với tôi có một giá trị tinh thần không nhỏ. Và con đường sỏi đá lượn quanh co trên đầu núi là một loại con đường hành hương dẫn tôi đi vào cái khung cảnh thanh khiết, nơi đó tôi gạn lọc các ô nhiễm kết tập trong suốt một tuần lễ, từ cái thành phố sống đầy bụi bặm dưới kia.



Vi tính : Hải Hạnh Ngọc Dung

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7714)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4237)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4751)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6165)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7663)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5192)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5251)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4337)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8567)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 9992)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]