Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cái Gì Trân Quí Nhất

10/04/201312:20(Xem: 5027)
Cái Gì Trân Quí Nhất

spider_1CÁI GÌ TRÂN QÚY NHẤT

Thích Hải Tín

---o0o---

Thuở xưa, trong một thành nọ, có một ngôi chùa tên là Viên Âm, mỗi ngày có rất nhiều người đến thắp hương lễ Phật, nên chùa cũng rất hưng thịnh. Trên xà ngang (đòn tay) ở nóc chùa có con Nhền Nhện (Tri Thù) giăng tơ làm tổ. Do vì mỗi ngày đều chịu nhiều khói hương và sự kiền thành lễ bái xông lên, cho nên con Nhền Nhện đã có Phật tánh. Trải qua hơn một ngàn năm tu luyện, Phật tánh của Nhền Nhện cũng đã tăng lên nhiều.

Một ngày nọ Đức Phật quang lâm đến chùa Viên Âm, thấy hương khói nơi này rất thịnh vượng, Phật rất hoan hỷ. Lúc rời chùa, bất ngờ nhìn lên, thấy con Nhền Nhện trên xà ngang, Phật dừng lại, nói với Nhền Nhện rằng: “ Ta và ngươi có duyên mới gặp nhau, thấy ngươi tu luyện ở đây hơn ngàn năm rồi, không biết ngươi đã có kiến giải hay thấu triệt gì chưa, vậy Ta muốn hỏi ngươi một vấn đề, có được không?” Nhền Nhện gặp được Phật Nhền Nhện rất vui mừng, liền đồng ý lời Phật nói.

Đức Phật hỏi Nhền Nhện rằng: “Trên đời này cái gì là trân quý nhất?” Nhền Nhện suy nghĩ một hồi rồi đáp rằng: “Bạch Thế Tôn, trên đời này cái trân quý nhất là cái “đạt không được” và cái “đã mất đi”.” Đức Phật khẽ gật đầu rồi rời khỏi chùa Viên Âm.

Như vậy 500 năm đã trôi qua, Nhền Nhện vẫn tu luyện trên xà ngang của chùa Viên Âm. Tánh Phật của Nhền Nhện ngày càng sáng ra. Một ngày nọ Phật tổ lại đến chùa, nói với Nhền Nhện rằng: “Này Nhền Nhện, ngươi vẫn khỏe chứ? vấn đề 500 năm trước, ngươi có hiểu biết gì sâu rộng chưa?” Nhền Nhện đáp rằng: “Bạch Phật, con cảm thấy cái trân quý nhất trên đời này vẫn là cái “đạt không được” và cái “đã mất đi”.” Đức Phật nói: Ngươi tiếp tục tu luyện và suy nghĩ thêm đi, Ta sẽ tiếp tục đến tìm ngươi”.

Năm trăm năm nữa lại trôi qua, một ngày nọ, gió mạnh nổi lên, gió thổi một giọt nước cam lộ bay và vướng vào ổ lưới Nhền Nhện. Nhền Nhện nhìn giọt cam lộ, thấy nó trong suốt óng ánh rất đẹp, bèn sanh ý ưa thích. Nhền Nhện mỗi ngày ngắm nhìn giọt cam lộ rất vui vẻ, nó cảm thấy rằng đây là những ngày vui vẻ nhất trong hai ngàn năm nay.

Bỗng nhiên một cơn gió mạnh thổi đến, giọt nước cam lộ kia cũng bị gió thổi đi mất. Nhền Nhện trong phút chốc cảm thấy mất đi cái gì đó, cảm thấy cô đơn buồn tẻ khó chịu. Lúc này Phật tổ lại đến, hỏi Nhền Nhện rằng: “Nhền Nhện à, năm trăm năm nay ngươi suy nghĩ kỹ vấn đề: Trên đời này cái gì là trân quý nhất?” Nhền Nhện nghĩ đến giọt cam lộ, vẫn đáp với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, trên đời này cái quý nhất là vẫn là cái “đạt không được” và cái “đã mất đi”.” Phật nói rằng: “Hay lắm, ngươi đã kiến giải như vậy, hiểu biết như vậy, vậy Ta cho ngươi đi một vòng ở thế gian vậy”.

Như vậy, Nhền Nhện đầu thai làm một tiểu thơ giàu có, làm con của một gia đình quan đại thần, cha mẹ cô ấy đặt cho cô ấy một cái tên là Tri Nhi (Bé Nhền Nhện), đến năm 16 tuổi Bé Nhền Nhện đã trở thành một thiếu nữ thướt tha yểu điệu đẹp đẽ sạch sẽ cảm động lòng người.

Một ngày nọ, vua trong nước quyết định tổ chức tiệc mừng công cho tân khoa bảng vàng trạng nguyên Cam Lộc ở phía sau hoa viên. Trong buổi tiệc có rất nhiều thiếu nữ trẻ tuổi đến tham dự, có cả tiểu công chúa Trường Phong của vua. Trong buổi tiệc chàng trạng nguyên Cam Lộc, đem tài nghệ của mình ra cống hiến, như thi từ ca phú, tất cả thiếu nữ trong buổi tiệc không ai không bị tài nghệ của chàng trạng nguyên kia thuyết phục. Nhưng Bé Nhền Nhện không có gì tỏ ra lo lắng hay ganh tỵ gì, vì cô ấy biết, đây là nhân duyên Phật tổ thưởng cho cô ấy.

Mấy ngày sau, kể ra thì cũng lạ thật, lúc Bé Nhền Nhện đưa mẹ đi thắp hương lễ Phật, cũng lúc ấy Cam Lộc cũng đưa mẹ đến lễ Phật. Sau khi thắp hương lễ Phật xong, hai người mẹ đứng một bên thăm hỏi chuyện trò, Bé Nhện và Cam Lộc vừa đi trên hành lang vừa trò chuyện, Bé Nhền Nhện rất vui vẻ nghĩ rằng, cuối cùng mình cũng được ở bên cạnh người mình yêu thích, nhưng Cam Lộc không có biểu hiện với sự vui thích của cô ấy. Tri Nhi (Bé Nhền Nhện) nói với Cam Lộc rằng: “Lẽ nào bạn chưa từng nhớ sự việc trên mạng lưới nhền nhện ở chùa Viên Âm mười sáu năm về trước hay sao?!” Cam Lộc rất kinh ngạc, nói rằng: “Bạn Tri Nhi ơi, bạn rất đẹp, cũng làm cho người ta thích, nhưng sức tưởng tượng của bạn hơi phong phú một chút.” Nói xong hai người chia tay nhau, cùng với mẫu thân rời chùa.

Tri Nhi về đến nhà, trong lòng nghĩ rằng: “Phật tổ đã an bài chuyện hôn nhân như vậy, vì sao không làm cho anh ấy nhớ lại chuyện trước đây? Vì sao Cam Lộc không có cảm giác gì với mình?” Mấy ngày sau, vua ban lệnh, tân khoa trạng nguyên Cam Lộc kết hôn cùng với công chúa Trường Phong, Thái tử Chi Thảo kết hôn với Tri Nhi. Tin này đối với Tri Nhi như là sét đánh giữa trời quang, cố ấy nghĩ mãi mà nghĩ cũng không thông, vì sao Phật tổ đối với cô ấy như vậy?!

Trong mấy ngày sau khi biết tin tức như vậy, cô ấy không ăn không uống gì, tính mạng rất nguy kịch sớm chiều. Thái tử Chi Thảo vừa hay được tình hình của Tri Nhi, bèn vội vàng chạy đến, bổ nhào đến bên cạnh giường của Tri Nhi, nói với Tri Nhi đang thoi thóp chút hơi tàn rằng: “Ngày ấy, trong các tiểu thư ở sau hoa viên, ta mới gặp nàng đã đem lòng yêu quý, ta đã khổ nhọc khẩn cầu phụ hoàng, phụ hoàng mới đáp ứng lời khẩn cầu của ta. Nếu nàng chết rồi, thì ta cũng không thiết sống nữa”. Nói xong, bèn rút gươm định tự tử.

Ngay lúc này, Phật tổ đến, Ngài nói với thần thức của Tri Nhi sắp thoát khỏi thân xác rằng: “Này Nhền Nhện, ngươi đã từng nghĩ qua, Cam Lộ (hay Cam Lồ tức Cam Lộc) do ai mang đến bên cạnh ngươi vậy? Là do gió (công chúa Trường Phong) mang đến, cuối cùng cũng do gió mang nó đi. Cam Lộc là thuộc về công chúa Trường Phong, người ấy chẳng qua chỉ là khúc nhạc chen vào trong cuộc đời của ngươi mà thôi. Nhưng lúc ấy Thái tử Chi Thảo là cây cỏ nhỏ ở trước chùa Viên Âm, người ấy đã gặp ngươi hai nghìn năm rồi, đã ái mộ ngươi hai nghìn năm rồi, nhưng ngươi lại chưa từng cuối đầu nhìn qua người ấy. Này Nhền Nhện, bây giờ Ta lại hỏi ngươi, trên đời này cái gì là trân quý nhất?”

Tri Nhi (Bé Nhền Nhện) sau khi nghe những chân tướng này, bỗng nhiên đại triệt đại ngộ, cô ấy bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, trên đời này cái trân quý nhất không phải là cái “đạt không được” và cái “đã mất đi”, mà là hạnh phúc đang có trong hiện tại.”

Vừa nói xong Phật liền ra đi, thần thức của Tri Nhi cũng đã trở lại thân xác của Tri Nhi, cô ấy từ từ mở mắt ra, thấy Thái tử Chi Thảo đang muốn tự vẫn, cô ấy lập tức đánh thanh gươm rơi xuống đất, và ôm chặt Thái tử vào lòng…

Thiền Tư Thiền Ngộ:

Trên đời này rất nhiều người cố chấp việc truy cầu những gì mình đạt không được hoặc đã mất đi, mà bỏ đi, đánh mất đi hạnh phúc trước mắt có được, như những gì có ở trong tay mình, điều này thật rất không đáng biết bao?! Trên đời này cái trân quý nhất không phải là cái gì “đạt không được” và cái “đã mất đi”, mà là hạnh phúc đang có trong hiện tại.

---o0o---

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20306)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3876)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8407)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7970)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9472)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4736)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4076)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3785)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]