Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ Duyên Nơi Cửa Phật

25/04/201707:31(Xem: 7215)
Chữ Duyên Nơi Cửa Phật

 

Chữ DUYÊN Nơi Cửa Phật

 

● Trần Thị Nhật Hưng.

(Tường thuật khóa tu Bát Quan Trai

tại chùa Luzern Thụy Sĩ)

 

Chua Phat To Thuy Sy
(Chùa mới ở Nebikon / Luzern, Thụy Sĩ)

 

     Chữ "duyên" trong đạo Phật, nghe vô cùng dễ thương nhưng cũng cực kỳ dễ ghét. Dễ thương ở chỗ nhờ duyên người ta đến với nhau, còn dễ ghét cũng vì duyên người ta đành xa nhau.

     Đến cũng do duyên, mà đi cũng vì duyên. Hai người yêu nhau đến với nhau, họ bảo có duyên với nhau. Rồi khi chia tay thì bảo hết duyên. Đã vậy, "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ“. Còn „vô duyên đối diện bất tương phùng". Vô duyên cũng là duyên mà hữu duyên cũng là duyên. Cùng chữ duyên mà lắm nghĩa quá!

     Người Phật tử ngồi với nhau bàn chữ "duyên" cùng tự hỏi, nếu dịch chữ duyên ra tiếng Anh, Pháp, Đức cho người ngoại quốc phải dịch sao cho rõ nghĩa hở trời? Khó thật đấy.

     Thôi thì, chữ duyên coi như dành cho người Phật tử hay dùng và... độc quyền cho riêng Phật giáo mình vậy.

     Và tôi, nhiều năm trời ở Thụy Sĩ, đầu năm dương lịch nào, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển cũng đến chùa tại Luzern tổ chức Thọ Bát Quan Trai, thế mà mãi đến bây giờ năm 2017 tôi mới có... duyên tham dự. Duyên này hẳn là duyên lành mới đưa đẩy tạo duyên cho tôi đến chùa. Tại sao vậy?

    Số là từ nhà tôi đến chùa tại Luzern cũng khá xa. Nếu đi xe lửa chỉ đổi tàu thôi cũng mất 3 bận thêm xe buýt rồi đi bộ, cộng cả thảy hơn 3 tiếng đồng hồ, chưa kể tàu xe tại Thụy Sĩ rất mắc, thôi thì... cứ nghĩ hình như chưa hội đủ nhân duyên để đến dự.

    Nay thì duyên lũ khủ đến, thôi thúc tôi lên đường. Trước nhất là tôi đã về hưu nhiều thời gian đi tu tập, còn mạnh chân khỏe tay đi đó đây. Năm nay không trốn tuyết Thụy Sĩ, nên mới ở nhà, lại thêm vé tàu xe lúc này có chương trình mua online nửa giá, chùa lại có sư mới và sắp có chùa mới, khiến tôi cũng tò mò. Tham dự, nhân tiện vấn an sức khỏe Hòa Thượng Phương Trượng sau thời gian dài không gặp mà nghe đâu, Hòa Thượng bị giải phẫu hai lần trong cơn bịnh không đơn giản. Ôi chao, nhiều duyên quá, cả chuỗi, cả chùm, lại thuận duyên nữa nên ở nhà sao đành.

     Đúng ngày giờ, tôi cùng đấng lang quân xách va ly lên đường khi ngoài trời tuyết rơi tầm tã, lạnh buốt.

     Tháng một mùa Đông là cao điểm của Thụy Sĩ,  bầu trời tối ui ui xám xịt trông thật buồn thảm, chỉ có đám tuyết trắng vướng mắc trên mái nhà, dạt hai bên đường còn phản chiếu chút ánh sáng xua đuổi phần nào bóng tối âm u. Với thời tiết khắc nghiệt như vậy, đường lại trơn trợt khó đi, nhưng mà "đường đi khó, không khó vì tuyết rơi lạnh buốt mà khó vì lòng người ngại tuyết với buốt da". Tôi đã không ngại gì hết khi lòng đã quyết tâm, nên cái lạnh bên ngoài sá gì khi sẽ được sưởi ấm bởi tình yêu thương trong không khí ấm cúng của thầy, bạn như một gia đình mà cha lành là đấng Từ Phụ để quây quần bên nhau tu tập, học lời Phật dạy, hướng tất cả tìm về Chánh Đẳng Chánh Giác để có một cuộc sống an lành hạnh phúc vốn luôn khổ đau này.

   Ngôi chùa tại Luzern tọa lạc tại một làng nhỏ gần trung tâm thuộc thành phố du lịch Thụy Sĩ. Chùa chỉ nhỏ thôi mà cái tên thì quá... nổ: "CHÙA PHẬT TỔ THÍCH CA". "Nhà" của Phật Tổ mà bé tẻo teo lại xuống cấp trầm trọng thấy xót xa quá. Đó là căn nhà "cải gia vi tự". Chùa vừa nhỏ vừa cũ, bị chi phối bởi thời gian nên hư hại nhiều. Ngồi trong nhà vệ sinh còn phải căng dù. Bếp núc có bốn mặt lò bị... đui hai cái khiến ban trai soạn rất khó khăn khi nấu nướng. Những lúc lễ lớn hầu hết do Phật tử nấu tại nhà đem đến cúng dường. Đó chưa kể dù cửa chùa đã khóa, chỉ cần đẩy nhẹ là cửa chùa bung ra, rồi ống nước, đèn đốm... hư tuốt tuồn tuột!

    Đạo Phật thường hay nói: "Có phiền não mới thấy Bồ Đề. Có nghịch cảnh mới gặp Niết Bàn". Nhà chùa hư hại như vậy, đó là lý do bị chính quyền Thụy Sĩ cảnh báo, nếu không muốn nói cấm đoán không cho Phật tử sinh hoạt đông sợ hỏa hoạn hay sụp nhà. Nói chung là tránh tai nạn có thể xảy ra.

     Người Việt mình thì quen "điếc không sợ súng" thường coi nhẹ tính mạng, cho nên cứ... lì cầm cự sinh hoạt. Tuy nhiên cũng đâu dám coi thường luật lệ Thụy Sĩ nên đã âm thầm kêu gọi sự đóng góp của Phật tử bao lâu để tu bổ chùa hoặc có thể tạo chùa mới.

     Nhân duyên đưa đẩy, cùng lúc với huy động tài chánh, Thầy trụ trì cùng với Phật tử âm thầm tìm địa điểm khác và nay đã tìm thấy.

     Ngôi chùa mới tọa lạc tại Nebikon, một làng nhỏ khác cũng không xa thành phố Luzern, lại gần thành phố Olten, nơi có đông đảo Phật tử. Nói chung Nebikon là trung điểm để các nơi thuận tiện đổ về.

     Chùa mới, đó là một nhà hàng có phòng trọ với 10 phòng ngủ diện tích 1.600 mét vuông trị giá 1 triệu 200 ngàn quan Thụy Sĩ. Với giá cả như vậy thật là một duyên lành không dễ một sớm một chiều mà có nếu không có Chư Phật hộ trì, phúc phần của Phật tử Thụy Sĩ nói chung và đặc biệt của Phật tử Luzern nói riêng bao năm đã kiên trì vượt qua bao khó khăn, sóng gió dù chùa bấy giờ không có sư, vẫn duy trì để tồn tại được hằng chục năm trời từ bấy đến bây giờ.

    Vừa mua được chùa mới, thì cùng lúc bán được cơ sở cũ, cộng thêm tịnh tài quyên góp bấy lâu đắp đổi qua lại, thì chùa vay thêm ngân hàng 400 ngàn quan nữa, chưa kể tiền để tu bổ chánh điện, nhà bếp, nơi ăn chốn nghỉ của chư Tăng Ni, Phật tử sao cho thuận tiện để sinh hoạt. Một điều thuận duyên nữa mà bao Phật tử mong ước đó là phương tiện giao thông. Nếu đi xe lửa xuống ga Nebikon thì nhìn qua là thấy chùa và chỉ vài phút là đến nơi. Còn xe hơi có tới 30 chỗ đậu trước và sau sân chùa, chưa kể hãng xưởng bên cạnh có chỗ đậu xe để khi cần thiết chùa có thể mượn được và đặc biệt hơn nữa văn phòng chính quyền sở tại cũng không xa chùa mấy, đã mở lời ủng hộ hết mình cho Phật giáo chúng ta. 

     Chúng tôi, một số Phật tử cùng Hòa Thượng ghé thăm qua chùa mới. Mới bước chân vào, ai nấy đều hoan hỉ. Bên trong, nơi sẽ làm chánh điện, nhà bếp, nhà vệ sinh sao mà rộng rãi tươm tất sạch sẽ, trông mát mắt vô cùng. Còn mười phòng ngủ nằm hết trên lầu chỉ cần tạo thêm nhà tắm, nhà vệ sinh nữa thì sẽ đáp ứng mọi nhu cầu sinh hoạt cho Phật tử thoải mái hơn nếu lễ lạc có đông người về tham dự.

      Ôi, còn thuận duyên và niềm vui nào hơn!

      Tuy nhiên, đó mới chỉ là hình thức, là phương tiện mà thôi. Không thể đánh giá sự thành công về một ngôi chùa nhờ có Phật to chùa lớn, mà quan trọng, theo Hòa Thượng Phương Trượng, người từng nhiều kinh nghiệm điều hành một ngôi chùa cho rằng, còn phối hợp với sự điều hành nội bộ như một xưởng nhỏ đòi hỏi điều kiện ắt có và đủ người lãnh đạo phải biết cách quản lý nhất là khâu nhân sự hết sức khéo léo và tế nhị để trên dưới thuận hòa, công việc trôi chảy lớp lang thì ngôi chùa mới phát triển, mới đúng nghĩa là nơi dẫn dắt mọi người hướng về cõi Tịnh Độ.

     Đại Đức Thích Như Tú, một tăng sinh từng nhận học bổng do Hòa Thượng đài thọ, tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ về Việt Nam hành đạo, rồi mới sang Thụy Sĩ lãnh đạo tinh thần Phật tử tại đây.

     Đứng trước sự khác biệt quá lớn của hai nền văn minh Âu-Á, đương nhiên Đại Đức không khỏi bỡ ngỡ và gặp rất nhiều khó khăn khi hội nhập. Từ tập quán, ngôn ngữ tiếng Đức, khí hậu, cách sống, cách suy nghĩ của người dân Thụy Sĩ và nếp sống cộng đồng Việt Nam tại đây.

     Như cô dâu mới về nhà chồng. Làm dâu một mẹ chồng đã là rất khó khăn, huống hồ làm trụ trì là làm dâu trăm họ với bao bà mẹ chồng tính khí khác nhau mà phụ nữ xưa nay vốn nhiều phức tạp hơn đàn ông nên hướng dẫn họ không đơn giản. Ngay Đức Phật ngày xưa đã nhìn ra điều đó từng cấm không cho phụ nữ vào chùa tu và khi Ngài cho phép, Đức Phật đã khẳng định giáo pháp của ngài sẽ bị chậm đến 500 năm. Do vậy trước mọi khó khăn, đòi hỏi người làm dâu hành xử vô cùng khéo léo, tế nhị, thì mọi việc trong nhà mới diễn ra tốt đẹp được.

     Nhân khóa tu Bát Quan Trai, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển đã chỉ dạy cho tất cả Phật tử hiểu thêm về cuộc sống. Không phải lúc nào cũng thuận duyên. Chính những chướng ngại, nghịch cảnh, phiền não là cơ hội cho người Phật tử cùng nhau tu tập để nếu không chuyển hóa những chướng ngại trở thành thuận duyên, thì phải biết chấp nhận; có như thế, mới an lạc và có phước báu tốt đẹp.

     Trong Đại Trí Độ Luận có nói, anh không thể đòi hỏi người ta bọc nhung cả quả địa cầu để chúng ta đi cho êm, mà mỗi người nên tự bọc nhung cái chân của mình thì chân mình sẽ êm thôi. Nếu hiểu được như vậy thì sẽ không oán giận ai; mà nếu có, thì tự giận chính mình thiếu tu và thiếu phước.

      Phật tử đã tới chùa thọ lãnh Bát Quan Trai giới là đã phát tâm hướng về Tam Bảo, huân tập chủng tử lành, có lòng tu học, nó như que diêm đốt lên trong phòng tối thì ánh sáng sẽ thay đổi, chuyển hóa mọi khổ đau, phiền não. Chấp nhất gì nữa những điều không ưng ý. Mà những điều không ưng ý, theo Ngài Đạt Lai Lạt Ma đôi khi lại là điều may mắn, vì có nghịch cảnh mới thấy Niết Bàn!

     Riêng đối với người xuất gia, Hòa Thượng cho rằng, nhiệm vụ của người tu khi ra hành đạo, trước là thượng báo tứ ân: quốc gia, cha mẹ, thầy tổ và chúng sinh. Hạ tế tam đường: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu không là vậy, coi như làm sai qui luật nhà chùa. Tuy chùa không đưa ra luật lệ khắt khe, nhưng người vào chùa là đã tâm niệm mang trong mình một hoài bão, một lý tưởng phụng sự Tam Bảo, phụng sự chúng sinh, ngay cả cư sĩ Phật tử cũng vậy, tất cả đều có ý hướng xây dựng, mong Phật giáo hưng thịnh và trường tồn.

     Cùng gặp nhau trong chùa là đã có duyên với nhau từ bao kiếp dù thuận hay nghịch cũng là duyên.

     Ngày xưa, ngay như Đức Phật và Đề Bà Đạt Đa, tuy anh em chú bác ruột trong một gia tộc, nhưng Đề Bà Đạt Đa coi Đức Phật như kẻ thù, luôn hãm hại Phật.

     Truyền thuyết cho rằng một kiếp nào đó hai người đã có duyên gặp nhau trong một hoàn cảnh cùng tham dự lễ tuyển phu của con gái một trưởng giả. Vì bị thua mà Đề Bà Đạt Đa đem lòng oán hận Phật cho tới kiếp sau. Vốn tài năng nhưng cực kỳ hung ác đã phạm trọng tội ngũ nghịch phải bị đọa xuống địa ngục A Tỳ vô cùng thống khổ. Sau ông biết ăn năn sám hối, chí thành qui y Phật rồi đi tu nên trở thành Bích Chi Phật tên là Nam Mô Phật.

     Chuyện thời Đức Phật còn vậy là bài học cho mỗi chúng ta nhìn lại chính mình để nếu có lầm lỡ thì kíp ăn năn sám hối, tu tập thì chúng ta cũng sẽ thành Phật. Đức Phật đã chẳng bảo, ta là Phật đã thành, và chúng sinh là Phật sẽ thành đó sao! Mà nói không chưa đủ, Phật còn hướng dẫn chỉ bảo cho chúng ta một cách cặn kẽ căn nguyên của vô minh, vô thường, khổ, tất cả những phương pháp để mọi người đều có khả năng thành Phật.

 

   Thưa các bạn, từ nãy giờ tôi lan man chuyện thiên hạ sự, bây giờ xin vào đề mục chính thọ Bát Quan Trai Giới.

      Người Phật tử vốn gia sự đa đoan không thể xuất gia được, có cơ hội đến chùa phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới tức là đặt mình vào một rào cản không để tâm chạy lung tung, chí tâm sám hối, gieo nhân hạnh xuất gia một hay vài ngày khi có thể.

 

chua phat to thuy sy 2

 

      Ngoài Tam Qui, Ngũ Giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu Phật tử còn thọ thêm 3 giới nữa cho đủ tám: Không xức dầu thơm, không nằm giường cao đẹp, ca múa và xem nghe âm nhạc, ăn phải đúng thời.

     Ngoài ra, tại nhà, nếu chọn ngày mồng 8 và 23 ngày các Thiên Sứ đi tuần trong dân gian. Ngày 14, 30 hay 29 tháng thiếu là ngày mà hai Đông Cung Thái Tử đi tuần và đặc biệt ngày Rằm, Mồng Một (15, 1) là ngày của Vua cõi trời Đế Thích đi tuần. Đó là sáu ngày chay căn bản cho Phật tử tại gia thọ Bát Quan Trai giới, và nhờ công đức thọ Bát Quan Trai này sẽ không đọa ba đường: ác thú, bát nạn, biên địa. Ngay như việc ăn mặn trong ngày thọ giới cũng bị xem phạm giới sát sanh.

     Ôi, tu tập nói thì dễ mà hành không phải dễ nếu người đó không chí thành cầu đạo và không có duyên với Phật.

     Lần này, ngoài việc giữ giới chỉ một ngày trong thọ bát, Phật tử chúng tôi còn được Hòa Thượng giảng sơ về Kinh Viên Giác.

     Kinh Viên Giác chương đầu tiên nói về Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đệ tử tượng trưng trí tuệ nhiều đời của Phật, từng là thầy của nhiều Phật có lòng từ bi quảng đại.

      Chủ yếu của kinh Viên Giác là trở về với tánh giác để đến Niết Bàn an lạc. Nhưng trước nhất phải biết rõ căn bản vô minh, vô thường là khổ. Rồi dùng tánh giác để quán chiếu thân này kết hợp từ đất, nước, gió, lửa để không còn thấy cái tôi của mình, không thấy gì thuộc về tôi, không bản ngã tôi. Tất cả đều không thật. Và phương pháp để quán chiếu là thiền hay tụng kinh để phát sinh trí tuệ. Điều này ai cũng có thể làm được không đòi hỏi phải học cao hiểu rộng. Một Bàn Đặc, hai chữ Tảo Giác (có nghĩa là quét, trí tuệ) học còn không xong, nhưng chỉ chuyên tâm ngồi thiền, tụng kinh không những trí tuệ phát sinh mà còn có thần thông nữa.

     Trong khóa tu, còn có mục Phật pháp vấn đáp rất sôi nổi với những câu hỏi mà Hòa Thượng dặn, hỏi sao cho quí Thầy... bí. Nhưng, là Phật tử chúng tôi làm sao“múa rìu qua mắt thợ được„ nên bao câu hỏi đều được trả lời thích đáng.

     Câu hỏi gút mắc khó hiểu nhất là, tu như thế nào để biết người đó chứng được quả A La Hán?

     Trả lời:

     * Cư sĩ chứng A La Hán có hai trường hơp:

     - Ái dục phải dứt, chứng xong đi tu liền.

     - Vừa chết xong chứng được A La Hán.

     * Tu sĩ chứng được A La Hán khi:

     - Dứt bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

    Thưa các bạn, tôi tạm kết thúc bài viết tại đây, hẹn các bạn khóa tới tại chùa mới với địa chỉ sau đây:

     Chùa Phật Tổ Thích Ca

     Im Winkel 9

     Nebikon 6244, Kt. Luzern

     Schweiz

      Với địa chỉ này, phân tích cặn kẽ, chúng ta nhận thấy ngôi chùa như một thiên duyên tiền định, bởi ngay chữ “Im Winkel„ tiếng Đức có nghĩa là nằm ở một góc, mà chùa tọa lạc đúng ngay một góc không méo, không xéo của ngả ba. Không đụng chạm hàng xóm Thụy Sĩ để phiền hà sau này.

     Chùa còn hy hữu mang con số “9„. Mà số 9 theo truyền thống dân gian là con số đẹp đem lại nhiều may mắn hạnh phúc an lành, ngay cả trong bài cào, số 9 là số thong dong ngồi ăn tiền. Còn dựa theo tinh thần Phật giáo, số 9 là hình ảnh cửu phẩm chúng ta thường hồi hướng sau bài kinh “Cửu Phẩm Liên Hoa Vi Phụ Mẫu„ đây là ước nguyện cho hành giả khi tu tập để được về cõi Liên Hoa của Đức Phật A Di Đà.

     Có tất cả 9 cõi:

1-    Thượng phẩm thượng sanh.

2-    Thượng phẩm trung sanh.

3-    Thượng phẩm hạ sanh.

4-    Trung phẩm thượng sanh.

5-    Trung phẩm trung sanh.

6-    Trung phẩm hạ sanh.

7-    Hạ phẩm thượng sanh.

8-    Hạ phẩm trung sanh.

9-    Hạ phẩm hạ sanh.

      Đó là 9 tầng bậc của cảnh giới Tây phương dành cho người biết tu tập. Vậy thì, còn chần chờ gì mà không gieo duyên Tam Bảo với ngôi chùa trên, nơi mà thiên duyên đã an bài cho những người con Phật.

 

     Cuối bài, chúng con không quên vô vàn tri ân Hòa Thượng Phương Trượng, dù tuổi đã cao, sức khỏe chưa hồi phục vẫn hết lòng tận tụy với Phật giáo, không quản đường sá xa xôi, mưa, tuyết của mùa Đông giá lạnh lặn lội đó đây hết từ Đức sang Pháp, qua Thụy Sĩ, trở về Đức rồi bay tiếp đến Đan Mạch, Na Uy, Ý... để truyền bá giáo pháp của Như Lai và hướng dẫn Thọ Bát Quan Trai cho Phật tử tu tập. Bút mực nào có thể ghi hết lòng kính trọng, ngưỡng mộ của chúng con.

      Chúng tôi cũng xin niệm ân Đại Đức Thích Như Tú và Ban Trị Sự chùa Luzern đã tổ chức khóa tu Thọ Bát Quan Trai này, cùng những vị trong ban trai soạn, đóng góp những bữa ăn rất ngon cho khóa tu…

     Kính chúc tất cả sức khỏe dồi dào, Bồ Đề tâm kiên cố.

     Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trần Thị Nhật Hưng

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/03/2016(Xem: 10087)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10120)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15167)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3412)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2889)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6090)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4495)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 12042)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 13893)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
18/12/2015(Xem: 7090)
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên khác biệt. Chuyến đi Ai Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng có nhân duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương Trượng được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ thời gian ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ ghé Bồ đề Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường Đại học Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ duyên được gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù lại phần lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh viên hoặc ở nhà trọ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]