Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ Duyên Nơi Cửa Phật

25/04/201707:31(Xem: 7273)
Chữ Duyên Nơi Cửa Phật

 

Chữ DUYÊN Nơi Cửa Phật

 

● Trần Thị Nhật Hưng.

(Tường thuật khóa tu Bát Quan Trai

tại chùa Luzern Thụy Sĩ)

 

Chua Phat To Thuy Sy
(Chùa mới ở Nebikon / Luzern, Thụy Sĩ)

 

     Chữ "duyên" trong đạo Phật, nghe vô cùng dễ thương nhưng cũng cực kỳ dễ ghét. Dễ thương ở chỗ nhờ duyên người ta đến với nhau, còn dễ ghét cũng vì duyên người ta đành xa nhau.

     Đến cũng do duyên, mà đi cũng vì duyên. Hai người yêu nhau đến với nhau, họ bảo có duyên với nhau. Rồi khi chia tay thì bảo hết duyên. Đã vậy, "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ“. Còn „vô duyên đối diện bất tương phùng". Vô duyên cũng là duyên mà hữu duyên cũng là duyên. Cùng chữ duyên mà lắm nghĩa quá!

     Người Phật tử ngồi với nhau bàn chữ "duyên" cùng tự hỏi, nếu dịch chữ duyên ra tiếng Anh, Pháp, Đức cho người ngoại quốc phải dịch sao cho rõ nghĩa hở trời? Khó thật đấy.

     Thôi thì, chữ duyên coi như dành cho người Phật tử hay dùng và... độc quyền cho riêng Phật giáo mình vậy.

     Và tôi, nhiều năm trời ở Thụy Sĩ, đầu năm dương lịch nào, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển cũng đến chùa tại Luzern tổ chức Thọ Bát Quan Trai, thế mà mãi đến bây giờ năm 2017 tôi mới có... duyên tham dự. Duyên này hẳn là duyên lành mới đưa đẩy tạo duyên cho tôi đến chùa. Tại sao vậy?

    Số là từ nhà tôi đến chùa tại Luzern cũng khá xa. Nếu đi xe lửa chỉ đổi tàu thôi cũng mất 3 bận thêm xe buýt rồi đi bộ, cộng cả thảy hơn 3 tiếng đồng hồ, chưa kể tàu xe tại Thụy Sĩ rất mắc, thôi thì... cứ nghĩ hình như chưa hội đủ nhân duyên để đến dự.

    Nay thì duyên lũ khủ đến, thôi thúc tôi lên đường. Trước nhất là tôi đã về hưu nhiều thời gian đi tu tập, còn mạnh chân khỏe tay đi đó đây. Năm nay không trốn tuyết Thụy Sĩ, nên mới ở nhà, lại thêm vé tàu xe lúc này có chương trình mua online nửa giá, chùa lại có sư mới và sắp có chùa mới, khiến tôi cũng tò mò. Tham dự, nhân tiện vấn an sức khỏe Hòa Thượng Phương Trượng sau thời gian dài không gặp mà nghe đâu, Hòa Thượng bị giải phẫu hai lần trong cơn bịnh không đơn giản. Ôi chao, nhiều duyên quá, cả chuỗi, cả chùm, lại thuận duyên nữa nên ở nhà sao đành.

     Đúng ngày giờ, tôi cùng đấng lang quân xách va ly lên đường khi ngoài trời tuyết rơi tầm tã, lạnh buốt.

     Tháng một mùa Đông là cao điểm của Thụy Sĩ,  bầu trời tối ui ui xám xịt trông thật buồn thảm, chỉ có đám tuyết trắng vướng mắc trên mái nhà, dạt hai bên đường còn phản chiếu chút ánh sáng xua đuổi phần nào bóng tối âm u. Với thời tiết khắc nghiệt như vậy, đường lại trơn trợt khó đi, nhưng mà "đường đi khó, không khó vì tuyết rơi lạnh buốt mà khó vì lòng người ngại tuyết với buốt da". Tôi đã không ngại gì hết khi lòng đã quyết tâm, nên cái lạnh bên ngoài sá gì khi sẽ được sưởi ấm bởi tình yêu thương trong không khí ấm cúng của thầy, bạn như một gia đình mà cha lành là đấng Từ Phụ để quây quần bên nhau tu tập, học lời Phật dạy, hướng tất cả tìm về Chánh Đẳng Chánh Giác để có một cuộc sống an lành hạnh phúc vốn luôn khổ đau này.

   Ngôi chùa tại Luzern tọa lạc tại một làng nhỏ gần trung tâm thuộc thành phố du lịch Thụy Sĩ. Chùa chỉ nhỏ thôi mà cái tên thì quá... nổ: "CHÙA PHẬT TỔ THÍCH CA". "Nhà" của Phật Tổ mà bé tẻo teo lại xuống cấp trầm trọng thấy xót xa quá. Đó là căn nhà "cải gia vi tự". Chùa vừa nhỏ vừa cũ, bị chi phối bởi thời gian nên hư hại nhiều. Ngồi trong nhà vệ sinh còn phải căng dù. Bếp núc có bốn mặt lò bị... đui hai cái khiến ban trai soạn rất khó khăn khi nấu nướng. Những lúc lễ lớn hầu hết do Phật tử nấu tại nhà đem đến cúng dường. Đó chưa kể dù cửa chùa đã khóa, chỉ cần đẩy nhẹ là cửa chùa bung ra, rồi ống nước, đèn đốm... hư tuốt tuồn tuột!

    Đạo Phật thường hay nói: "Có phiền não mới thấy Bồ Đề. Có nghịch cảnh mới gặp Niết Bàn". Nhà chùa hư hại như vậy, đó là lý do bị chính quyền Thụy Sĩ cảnh báo, nếu không muốn nói cấm đoán không cho Phật tử sinh hoạt đông sợ hỏa hoạn hay sụp nhà. Nói chung là tránh tai nạn có thể xảy ra.

     Người Việt mình thì quen "điếc không sợ súng" thường coi nhẹ tính mạng, cho nên cứ... lì cầm cự sinh hoạt. Tuy nhiên cũng đâu dám coi thường luật lệ Thụy Sĩ nên đã âm thầm kêu gọi sự đóng góp của Phật tử bao lâu để tu bổ chùa hoặc có thể tạo chùa mới.

     Nhân duyên đưa đẩy, cùng lúc với huy động tài chánh, Thầy trụ trì cùng với Phật tử âm thầm tìm địa điểm khác và nay đã tìm thấy.

     Ngôi chùa mới tọa lạc tại Nebikon, một làng nhỏ khác cũng không xa thành phố Luzern, lại gần thành phố Olten, nơi có đông đảo Phật tử. Nói chung Nebikon là trung điểm để các nơi thuận tiện đổ về.

     Chùa mới, đó là một nhà hàng có phòng trọ với 10 phòng ngủ diện tích 1.600 mét vuông trị giá 1 triệu 200 ngàn quan Thụy Sĩ. Với giá cả như vậy thật là một duyên lành không dễ một sớm một chiều mà có nếu không có Chư Phật hộ trì, phúc phần của Phật tử Thụy Sĩ nói chung và đặc biệt của Phật tử Luzern nói riêng bao năm đã kiên trì vượt qua bao khó khăn, sóng gió dù chùa bấy giờ không có sư, vẫn duy trì để tồn tại được hằng chục năm trời từ bấy đến bây giờ.

    Vừa mua được chùa mới, thì cùng lúc bán được cơ sở cũ, cộng thêm tịnh tài quyên góp bấy lâu đắp đổi qua lại, thì chùa vay thêm ngân hàng 400 ngàn quan nữa, chưa kể tiền để tu bổ chánh điện, nhà bếp, nơi ăn chốn nghỉ của chư Tăng Ni, Phật tử sao cho thuận tiện để sinh hoạt. Một điều thuận duyên nữa mà bao Phật tử mong ước đó là phương tiện giao thông. Nếu đi xe lửa xuống ga Nebikon thì nhìn qua là thấy chùa và chỉ vài phút là đến nơi. Còn xe hơi có tới 30 chỗ đậu trước và sau sân chùa, chưa kể hãng xưởng bên cạnh có chỗ đậu xe để khi cần thiết chùa có thể mượn được và đặc biệt hơn nữa văn phòng chính quyền sở tại cũng không xa chùa mấy, đã mở lời ủng hộ hết mình cho Phật giáo chúng ta. 

     Chúng tôi, một số Phật tử cùng Hòa Thượng ghé thăm qua chùa mới. Mới bước chân vào, ai nấy đều hoan hỉ. Bên trong, nơi sẽ làm chánh điện, nhà bếp, nhà vệ sinh sao mà rộng rãi tươm tất sạch sẽ, trông mát mắt vô cùng. Còn mười phòng ngủ nằm hết trên lầu chỉ cần tạo thêm nhà tắm, nhà vệ sinh nữa thì sẽ đáp ứng mọi nhu cầu sinh hoạt cho Phật tử thoải mái hơn nếu lễ lạc có đông người về tham dự.

      Ôi, còn thuận duyên và niềm vui nào hơn!

      Tuy nhiên, đó mới chỉ là hình thức, là phương tiện mà thôi. Không thể đánh giá sự thành công về một ngôi chùa nhờ có Phật to chùa lớn, mà quan trọng, theo Hòa Thượng Phương Trượng, người từng nhiều kinh nghiệm điều hành một ngôi chùa cho rằng, còn phối hợp với sự điều hành nội bộ như một xưởng nhỏ đòi hỏi điều kiện ắt có và đủ người lãnh đạo phải biết cách quản lý nhất là khâu nhân sự hết sức khéo léo và tế nhị để trên dưới thuận hòa, công việc trôi chảy lớp lang thì ngôi chùa mới phát triển, mới đúng nghĩa là nơi dẫn dắt mọi người hướng về cõi Tịnh Độ.

     Đại Đức Thích Như Tú, một tăng sinh từng nhận học bổng do Hòa Thượng đài thọ, tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ về Việt Nam hành đạo, rồi mới sang Thụy Sĩ lãnh đạo tinh thần Phật tử tại đây.

     Đứng trước sự khác biệt quá lớn của hai nền văn minh Âu-Á, đương nhiên Đại Đức không khỏi bỡ ngỡ và gặp rất nhiều khó khăn khi hội nhập. Từ tập quán, ngôn ngữ tiếng Đức, khí hậu, cách sống, cách suy nghĩ của người dân Thụy Sĩ và nếp sống cộng đồng Việt Nam tại đây.

     Như cô dâu mới về nhà chồng. Làm dâu một mẹ chồng đã là rất khó khăn, huống hồ làm trụ trì là làm dâu trăm họ với bao bà mẹ chồng tính khí khác nhau mà phụ nữ xưa nay vốn nhiều phức tạp hơn đàn ông nên hướng dẫn họ không đơn giản. Ngay Đức Phật ngày xưa đã nhìn ra điều đó từng cấm không cho phụ nữ vào chùa tu và khi Ngài cho phép, Đức Phật đã khẳng định giáo pháp của ngài sẽ bị chậm đến 500 năm. Do vậy trước mọi khó khăn, đòi hỏi người làm dâu hành xử vô cùng khéo léo, tế nhị, thì mọi việc trong nhà mới diễn ra tốt đẹp được.

     Nhân khóa tu Bát Quan Trai, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển đã chỉ dạy cho tất cả Phật tử hiểu thêm về cuộc sống. Không phải lúc nào cũng thuận duyên. Chính những chướng ngại, nghịch cảnh, phiền não là cơ hội cho người Phật tử cùng nhau tu tập để nếu không chuyển hóa những chướng ngại trở thành thuận duyên, thì phải biết chấp nhận; có như thế, mới an lạc và có phước báu tốt đẹp.

     Trong Đại Trí Độ Luận có nói, anh không thể đòi hỏi người ta bọc nhung cả quả địa cầu để chúng ta đi cho êm, mà mỗi người nên tự bọc nhung cái chân của mình thì chân mình sẽ êm thôi. Nếu hiểu được như vậy thì sẽ không oán giận ai; mà nếu có, thì tự giận chính mình thiếu tu và thiếu phước.

      Phật tử đã tới chùa thọ lãnh Bát Quan Trai giới là đã phát tâm hướng về Tam Bảo, huân tập chủng tử lành, có lòng tu học, nó như que diêm đốt lên trong phòng tối thì ánh sáng sẽ thay đổi, chuyển hóa mọi khổ đau, phiền não. Chấp nhất gì nữa những điều không ưng ý. Mà những điều không ưng ý, theo Ngài Đạt Lai Lạt Ma đôi khi lại là điều may mắn, vì có nghịch cảnh mới thấy Niết Bàn!

     Riêng đối với người xuất gia, Hòa Thượng cho rằng, nhiệm vụ của người tu khi ra hành đạo, trước là thượng báo tứ ân: quốc gia, cha mẹ, thầy tổ và chúng sinh. Hạ tế tam đường: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu không là vậy, coi như làm sai qui luật nhà chùa. Tuy chùa không đưa ra luật lệ khắt khe, nhưng người vào chùa là đã tâm niệm mang trong mình một hoài bão, một lý tưởng phụng sự Tam Bảo, phụng sự chúng sinh, ngay cả cư sĩ Phật tử cũng vậy, tất cả đều có ý hướng xây dựng, mong Phật giáo hưng thịnh và trường tồn.

     Cùng gặp nhau trong chùa là đã có duyên với nhau từ bao kiếp dù thuận hay nghịch cũng là duyên.

     Ngày xưa, ngay như Đức Phật và Đề Bà Đạt Đa, tuy anh em chú bác ruột trong một gia tộc, nhưng Đề Bà Đạt Đa coi Đức Phật như kẻ thù, luôn hãm hại Phật.

     Truyền thuyết cho rằng một kiếp nào đó hai người đã có duyên gặp nhau trong một hoàn cảnh cùng tham dự lễ tuyển phu của con gái một trưởng giả. Vì bị thua mà Đề Bà Đạt Đa đem lòng oán hận Phật cho tới kiếp sau. Vốn tài năng nhưng cực kỳ hung ác đã phạm trọng tội ngũ nghịch phải bị đọa xuống địa ngục A Tỳ vô cùng thống khổ. Sau ông biết ăn năn sám hối, chí thành qui y Phật rồi đi tu nên trở thành Bích Chi Phật tên là Nam Mô Phật.

     Chuyện thời Đức Phật còn vậy là bài học cho mỗi chúng ta nhìn lại chính mình để nếu có lầm lỡ thì kíp ăn năn sám hối, tu tập thì chúng ta cũng sẽ thành Phật. Đức Phật đã chẳng bảo, ta là Phật đã thành, và chúng sinh là Phật sẽ thành đó sao! Mà nói không chưa đủ, Phật còn hướng dẫn chỉ bảo cho chúng ta một cách cặn kẽ căn nguyên của vô minh, vô thường, khổ, tất cả những phương pháp để mọi người đều có khả năng thành Phật.

 

   Thưa các bạn, từ nãy giờ tôi lan man chuyện thiên hạ sự, bây giờ xin vào đề mục chính thọ Bát Quan Trai Giới.

      Người Phật tử vốn gia sự đa đoan không thể xuất gia được, có cơ hội đến chùa phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới tức là đặt mình vào một rào cản không để tâm chạy lung tung, chí tâm sám hối, gieo nhân hạnh xuất gia một hay vài ngày khi có thể.

 

chua phat to thuy sy 2

 

      Ngoài Tam Qui, Ngũ Giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu Phật tử còn thọ thêm 3 giới nữa cho đủ tám: Không xức dầu thơm, không nằm giường cao đẹp, ca múa và xem nghe âm nhạc, ăn phải đúng thời.

     Ngoài ra, tại nhà, nếu chọn ngày mồng 8 và 23 ngày các Thiên Sứ đi tuần trong dân gian. Ngày 14, 30 hay 29 tháng thiếu là ngày mà hai Đông Cung Thái Tử đi tuần và đặc biệt ngày Rằm, Mồng Một (15, 1) là ngày của Vua cõi trời Đế Thích đi tuần. Đó là sáu ngày chay căn bản cho Phật tử tại gia thọ Bát Quan Trai giới, và nhờ công đức thọ Bát Quan Trai này sẽ không đọa ba đường: ác thú, bát nạn, biên địa. Ngay như việc ăn mặn trong ngày thọ giới cũng bị xem phạm giới sát sanh.

     Ôi, tu tập nói thì dễ mà hành không phải dễ nếu người đó không chí thành cầu đạo và không có duyên với Phật.

     Lần này, ngoài việc giữ giới chỉ một ngày trong thọ bát, Phật tử chúng tôi còn được Hòa Thượng giảng sơ về Kinh Viên Giác.

     Kinh Viên Giác chương đầu tiên nói về Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đệ tử tượng trưng trí tuệ nhiều đời của Phật, từng là thầy của nhiều Phật có lòng từ bi quảng đại.

      Chủ yếu của kinh Viên Giác là trở về với tánh giác để đến Niết Bàn an lạc. Nhưng trước nhất phải biết rõ căn bản vô minh, vô thường là khổ. Rồi dùng tánh giác để quán chiếu thân này kết hợp từ đất, nước, gió, lửa để không còn thấy cái tôi của mình, không thấy gì thuộc về tôi, không bản ngã tôi. Tất cả đều không thật. Và phương pháp để quán chiếu là thiền hay tụng kinh để phát sinh trí tuệ. Điều này ai cũng có thể làm được không đòi hỏi phải học cao hiểu rộng. Một Bàn Đặc, hai chữ Tảo Giác (có nghĩa là quét, trí tuệ) học còn không xong, nhưng chỉ chuyên tâm ngồi thiền, tụng kinh không những trí tuệ phát sinh mà còn có thần thông nữa.

     Trong khóa tu, còn có mục Phật pháp vấn đáp rất sôi nổi với những câu hỏi mà Hòa Thượng dặn, hỏi sao cho quí Thầy... bí. Nhưng, là Phật tử chúng tôi làm sao“múa rìu qua mắt thợ được„ nên bao câu hỏi đều được trả lời thích đáng.

     Câu hỏi gút mắc khó hiểu nhất là, tu như thế nào để biết người đó chứng được quả A La Hán?

     Trả lời:

     * Cư sĩ chứng A La Hán có hai trường hơp:

     - Ái dục phải dứt, chứng xong đi tu liền.

     - Vừa chết xong chứng được A La Hán.

     * Tu sĩ chứng được A La Hán khi:

     - Dứt bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

    Thưa các bạn, tôi tạm kết thúc bài viết tại đây, hẹn các bạn khóa tới tại chùa mới với địa chỉ sau đây:

     Chùa Phật Tổ Thích Ca

     Im Winkel 9

     Nebikon 6244, Kt. Luzern

     Schweiz

      Với địa chỉ này, phân tích cặn kẽ, chúng ta nhận thấy ngôi chùa như một thiên duyên tiền định, bởi ngay chữ “Im Winkel„ tiếng Đức có nghĩa là nằm ở một góc, mà chùa tọa lạc đúng ngay một góc không méo, không xéo của ngả ba. Không đụng chạm hàng xóm Thụy Sĩ để phiền hà sau này.

     Chùa còn hy hữu mang con số “9„. Mà số 9 theo truyền thống dân gian là con số đẹp đem lại nhiều may mắn hạnh phúc an lành, ngay cả trong bài cào, số 9 là số thong dong ngồi ăn tiền. Còn dựa theo tinh thần Phật giáo, số 9 là hình ảnh cửu phẩm chúng ta thường hồi hướng sau bài kinh “Cửu Phẩm Liên Hoa Vi Phụ Mẫu„ đây là ước nguyện cho hành giả khi tu tập để được về cõi Liên Hoa của Đức Phật A Di Đà.

     Có tất cả 9 cõi:

1-    Thượng phẩm thượng sanh.

2-    Thượng phẩm trung sanh.

3-    Thượng phẩm hạ sanh.

4-    Trung phẩm thượng sanh.

5-    Trung phẩm trung sanh.

6-    Trung phẩm hạ sanh.

7-    Hạ phẩm thượng sanh.

8-    Hạ phẩm trung sanh.

9-    Hạ phẩm hạ sanh.

      Đó là 9 tầng bậc của cảnh giới Tây phương dành cho người biết tu tập. Vậy thì, còn chần chờ gì mà không gieo duyên Tam Bảo với ngôi chùa trên, nơi mà thiên duyên đã an bài cho những người con Phật.

 

     Cuối bài, chúng con không quên vô vàn tri ân Hòa Thượng Phương Trượng, dù tuổi đã cao, sức khỏe chưa hồi phục vẫn hết lòng tận tụy với Phật giáo, không quản đường sá xa xôi, mưa, tuyết của mùa Đông giá lạnh lặn lội đó đây hết từ Đức sang Pháp, qua Thụy Sĩ, trở về Đức rồi bay tiếp đến Đan Mạch, Na Uy, Ý... để truyền bá giáo pháp của Như Lai và hướng dẫn Thọ Bát Quan Trai cho Phật tử tu tập. Bút mực nào có thể ghi hết lòng kính trọng, ngưỡng mộ của chúng con.

      Chúng tôi cũng xin niệm ân Đại Đức Thích Như Tú và Ban Trị Sự chùa Luzern đã tổ chức khóa tu Thọ Bát Quan Trai này, cùng những vị trong ban trai soạn, đóng góp những bữa ăn rất ngon cho khóa tu…

     Kính chúc tất cả sức khỏe dồi dào, Bồ Đề tâm kiên cố.

     Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trần Thị Nhật Hưng

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/06/2020(Xem: 10612)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
02/06/2020(Xem: 10587)
THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HẠNH PHÚC (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ TỬ SINH, TỰ TÌNH KHÚC (thơ Ns. Hạnh Đạt), trang 13 ¨ TÀI SẢN SẼ MẤT, TẠO PHƯỚC THÌ CÒN (Quảng Tánh), trang 14 ¨ TÂM THƯ CẦU NGUYỆN BỆNH DỊCH CORONA VŨ HÁN CHẤM DỨT (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ CHÚC NGUYỆN THƯ PHẬT ĐẢN 2564 (TK. Thích Tuệ Sỹ), trang 16 ¨ THỌ GIỚI (HT. Thích Huệ Hưng), trang 18 ¨ SAU MÙA GIÓ LOẠN (thơ Mặc Phương Tử), trang 23 ¨ CHÙA CỔ THIÊN TỨ... (Tâm Không Vĩnh Hữu), trang 24
31/05/2020(Xem: 4650)
-Các con biết đây là gì không? Đây là chiếc Gối Gỗ của Sư Ông. Bốn huynh đệ chúng tôi trố mắt nhìn nhau, lần đầu tiên trong đời mới thấy chiếc gối gỗ. Thì ra, món đồ Sư Phụ để trên bàn thờ mấy năm qua được bọc vải vàng là cái Gối Gỗ của Sư Ông, chúng tôi nhiều lần thắc mắc nhưng không ai biết được đấy là gì, cũng không dám hỏi Sư Phụ. Tôi còn nhớ như in buổi chiều khi hay tin Sư Ông viên tịch, Thầy trò đang ngoài ruộng lúa chuẩn bị cho vụ mùa. Thầy vội vã về chùa để ra quê cho kịp chuyến xe tối. Hạnh Trí nhanh nhẹn chuẩn bị cho Thầy bộ Y, mấy bộ quần áo và vài gói mì lá Bồ Đề bỏ vào trong cái túi đãi đã bạc màu. Hạnh Tú thì tranh thủ dắt chiếc xe đạp ra ngoài trong tư thế đưa Thầy ra quốc lộ. Hạnh Lưu nhanh tay lo cho Thầy mấy trái bắp luộc để lót dạ trên đường. Thầy đi chỉ dặn dò mấy con ở chùa nhớ công phu bái sám đều đặn, công việc nặng thì nhờ quý bác Phật tử giúp giùm.
29/05/2020(Xem: 3800)
Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh… - Tâm hả con, vào nhanh đi. Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo: - Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!
27/05/2020(Xem: 5559)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
10/05/2020(Xem: 4290)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona. Thí chủ nào muốn cúng dường gạo sữa, hoa quả chỉ dám nhấn chuông rồi lặng lẽ để phẩm vật trước cửa Chùa. Không thể nào thực hiện được hạnh nguyện cúng dường ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhưng tấm lòng nhớ đến Tam Bảo như thế cũng đáng được tán thán! Chùa trở nên sống động nhờ ý tưởng độc đáo của Sư Bà Linh Thứu, phải làm một cái gì hữu ích cho xứ sở mình đang sống để trả ơn cho họ trong cơn đại dịch. Sư Bà huy động tất cả các Phật tử có tay nghề may vá, kêu gọi họ may khẩu trang đem đến Chùa quyên tặng và các Sư Cô của Chùa cũng phải ngày đêm may cắt làm sao cho đủ số. Ít nhất phải đến con số 3000 chiếc khẩu trang ân tình Sư Bà mới dám triệu Ngoại Vụ của Chùa đi làm việc. Sư Bà muốn mời một vị khách quý của Chùa đến nhận món quà ấy, ông Thị Trưởng của quận Spandau nơi chùa Linh Thứu sinh hoạt.
01/05/2020(Xem: 12745)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
30/04/2020(Xem: 5009)
Hãy mau mau buông bỏ mọi mê lầm ngay tại đây và ngay bây giờ. Xin giới thiệu với độc giả hoàn cảnh ra đời của bài này. Tác giả là nhân viên làm việc trong một nhà tù thuộc tiểu bang Victoria. Trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19, mọi người dân đều phải chấp hành lệnh của chính phủ tiểu bang và liên bang để giữ gìn an toàn sức khỏe cho cộng đồng. Không được tụ tập trên mười người và phải giữ giản cách xã hội (cách nhau hơn một sải tay). Vì phải làm lễ cầu siêu cho một tù nhân vừa qua đời sau hơn hai năm mang nhiều thứ bệnh trong hoàn cảnh đặc biệt này cho nên chúng tôi chọn cái đề tựa như trên.
27/04/2020(Xem: 3438)
Ra khỏi bến xe Vinh, xe rẽ về ngả Thanh Chương. Hàng cây hai bên đường như lui dần, biến vào trong đám bụi đất đỏ phía sau xe. Sáng sớm trời còn mờ sương. Hơi lạnh từ các hốc núi tỏa ra lãng đãng tan vào không khí. Gió mát dịu, tôi khoan khoái ngả người vào thành ghế phía sau lơ đãng nhìn những đám mây xám lơ lửng trong bầu trời âm u. Dường như có một chút ánh sáng ửng hồng ở phương xa, bên kia ngọn đồi trước mặt. Xe tiến tới. Ánh sáng như thật gần rồi sáng bẵng. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng. Người trong xe như trở mình sau một cơn ngáy ngủ. Họ lấm lét nhìn tôi soi mói như nhìn một quái vật từ cung trăng rớt xuống. Chắc là tôi lạ lắm. Tôi nghĩ vậy. Mái tóc ngắn, chiếc áo bà ba bó sát thân hình, chiếc quần đen hàng vải ú, nhưng dáng người ốm ốm, cao cao, tôi không giấu được tôi là người miền Nam vừa đến. - Chị ra Bắc thăm bà con đấy hẳn? Người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi tôi. Tôi quay lại mỉm cười rồi gật đầu dạ nhỏ.
27/04/2020(Xem: 2973)
Năm tôi mười hai tuổi, tôi đã biết mộng mơ. Nhưng tôi không mơ công tử đẹp trai con nhà giàu học giỏi hay các chàng bạch diện thư sinh mặt hoa da phấn mà tôi mơ hình ảnh thiếu nữ áo dài xanh (màu xanh nước biển), có đôi găng tay trắng, ở cổ áo gắn hai đầu rồng nho nhỏ, xinh xinh, huy hiệu của tiếp viên phi hành hàng không Air Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]