Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiếc lá về nguồn

10/04/201312:13(Xem: 4826)
Chiếc lá về nguồn

Chiếc lá về nguồn

Lam Khê

---o0o---

1- Sáng sớm đã nhìn thấy lá vàng rụng đầy sân. Ừ, đang mùa thay lá mà. Sân chùa có nhiều cây cao bóng mát cho khách thập phương ghé lại tham quan thưởng ngoạn. Thế nên hoa lá và cây trái cứ mặc sức đua chen cùng gió trời vi vút. Chốn Già Lam những ngày không lễ hội, cảnh vật mới thật sự mang bản sắc im lìm vắng lặng. Thi thoảng lắm mới có tiếng xào xạc của mấy chiếc lá vừa lìa cành. Dường như lá cũng sợ dẫm mình trên cõi đất bình yên.

Có hai cô học trò nhỏ vừa bước đến bên gốc cây bàng ngồi học bài. Họ mở sách và mãi miết chăm chú nhìn vào đó. Không gian vẫn yên ắng mang theo tiếng thở dài của ai đó bên kia bức tường rêu. Một chiếc lá vô tình chạm nhẹ vào tay cô bé áo hồng mang cặp kính cận dày cộm. Cô áo xanh bên cạnh ngước nhìn trời nhìn đất rồi bâng quơ hỏi bạn, chắc cũng muốn xé tan khoảng không gian trống vắng quanh mình:

_ Ê! Mi có thấy những chiếc lá vàng vừa rụng xuống không?

Cô áo hồng trả lời mà mắt không rời quyển sách:_ Thấy….. rồi sao….?

- Đó là những chiếc lá đang tìm về nguồn đấy…

- Lá mà về nguồn à? Người ta nói cây có cội nước có nguồn. Lá rụng thì phải về cội. Mi bày đặt văn chương hoá đến ...sai bét. Cứ nói lá rụng đi có được hơn không- Cô áo hồng ra vẻ hiểu biết ngắt lời bạn.

_ Thì cội hay nguồn cũng thế thôi. Tại người ta phân biệt ra nguồn là nơi phát sinh của sông suối, còn cội là chỉ cho gốc rễ. Chung quy cũng là chỉ cho đầu mối ban đầu của vạn vật. Ngôn từ thì có khác mà ý nghĩa cũng như nhau. Cho nên …

- Thôi đi nhà ngôn ngữ học tương lai à! Lo học bài thi đi. Còn chuyện mổ xẻ văn chương chữ nghĩa thì để sau này.

Cô áo xanh vẫn liếng thoáng:_ Ý Ta đang muốn nói đến điều khác cơ. Lá rụng thì trở về với cội nguồn, trở về với lòng đất nơi mà nó đã nảy mầm sanh ra. Con người ta chết rồi cũng trở về đất. Người ta không sanh ra từ đất mà từ lòng mẹ, do vậy mà họ lấy đất để biểu trưng cho lòng mẹ. Người trở về đất cũng là trở về với lòng mẹ, nơi khai thiên lập địa từ thuở ban đầu. Đất chính là nguồn cội, mọi sự sống và cái chết đều bắt nguồn từ đó.

Cô áo hồng khẻ nhíu mày nhìn bạn:_ Sao bữa nay Mi ăn nói lạ lùng thế? Mình ra đây để học bài thi chứ đâu phải để triết lý về cội nguồn của sự sống. Mi mới đến cửa chùa có mấy bữa mà coi bộ thấm nguồn tâm rồi… Thôi học bài đi nhỏ.

Họ lại im lặng. Những trang sách giở đều theo tiếng rì rào bâng khuâng của đám cỏ cây. Mặt đất vẫn thanh bình giữa mênh mông của cảnh chiều trôi.

2 - Bên kia bức tường xanh màu rêu bạc. Cô gái áo trắng nãy giờ ngồi ngoài ban công nhà mình vô tình nghe được lời đối thoại vừa rồi. Cô đã ngồi hằng giờ, thậm chí đã ngồi từng ngày này qua tháng khác; nơi một góc nhỏ bên chậu hoa lý chỉ để nhìn ra khoảng trống trước sân chùa, như một thói quen vô thức mỗi khi rảnh rỗi. Câu chuyện chiếc lá về nguồn của hai cô bé nọ, có lẽ chỉ là chút cảm nhận thoáng hiện của tuổi học trò. Nhưng đã đọng lại trong lòng người nghe ít nhiều khái niệm mới mẻ. Cảnh vật này hằng ngày cũng chỉ là mây bay lá rụng. Hoa cỏ đủ sắc màu khi thì tươi thắm rực rỡ, lúc nhạt nhẽo buồn tênh qua mỗi cái nhìn hờ hững. Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hoá. Mọi thứ được sinh ra đến một lúc nào đó phải huỷ diệt đi. Huỷ diệt để cho cái mới tiếp tục sinh sôi và lớn lên. Trong hành trình sinh sinh diệt diệt này thì cái bắt nguồn là từ đâu. Nếu cái mất đi chính là sự trở về, thì cái sinh ra là nơi bắt đầu cho mọi sự sống. Và cũng có thể hiểu ngược lại. Nơi trở về cũng là nơi bắt đầu cho một cuộc hành trình bất tận, còn chốn sinh ra cũng là để trở lại trong cái vòng xoay nghiệt ngã của kiếp sinh tồn.

Con người sinh ra đời phải làm nên điều gì đó, để khi chết không thẹn cùng núi sông cây cỏ”không biết triết gia nào đã lập ra luận đề sống cho đời người như thế. Vậy mà có lần cô nghe từ băng giảng mà ngoại thường mở: “Sang hèn vinh nhục, cực khổ bon chen tích luỹ cho nhiều của cải rồi cũng phải chết, thân xác người rồi cũng theo cát bụi tan biến vào hư vô. Vậy hà cớ gì người ta cứ mãi chạy tìm chút ảo ảnh của kiếp phù sinh. Còn cái nguồn tâm trong sáng, cái ý thức trở về thì người ta lại bỏ quên, không biết trau dồi để tìm cho mình một hướng đi về an lành vĩnh cữu”.

Ôi! Vậy thì cái trở về, cái nguồn cội ý thức ấy là gì nhỉ? Bạc tiền danh vọng rồi cũng mất, sang hèn vinh nhục cũng không còn. Và cái nguồn tâm trở về đó không biết đã có ai nhìn thấy chưa, chứ thực tại thì con người ta sống không thể thiếu khát vọng vươn lên. Vươn tới đâu cũng được, miễn là chu toàn một lẽ sống thường tình trong vòng nhân thế. Chỉ đến khi ai đó chợt hiểu ra cái nguyên lý sinh diệt khó tránh khỏi, mới vội vã đi tìm cho mình một chút bình yên nơi cõi chết. Khi Ngoại từ nước ngoài về định cư luôn ở quê nhà cũng đã nói:_ “Ngoại nay gần đất xa trời rồi, cũng phải trở về quê cha đất tổ để gởi nắm xương tàn… Đời người có mấy thuở, bôn ba đến chết rồi cũng trắng tay con à…”

Bây giờ ngoại đã mãn nguyện nằm yên dưới lòng đất lạnh, ngay nơi mảnh đất quê hương. Ừ, ngoại nói câu ấy khi đã đi đến chặng cuối của con đường đời. Nhưng còn cô, ở tuổi thanh xuân cô cần phải ruổi tìm cho mình một tương lai để đảm bảo cho cuộc sinh tồn tiếp nối. Mẹ không ngừng hối thúc:_ Con phải đi, đừng dùng dằng suy nghĩ nữa...

Cô cố ý nhại lại lời của Ngoại: Đời người bôn ba cho lắm rồi cũng tay không trở về. Có đi đâu trọn kiếp thì mai này cũng quay lại mái nhà xưa...mẹ à.

Mẹ dịu giọng nhưng vẫn cương quyết:_ Con còn trẻ, đâu phải chỉ biết sống cho riêng mình. Ngoaị già rồi thì khác. Người già thường tìm về sống với nguồn gốc quê hương.

Như vậy nguồn cội sự sống của cô bây giờ là ở một nơi nào đó, xa lạ với những gì quen biết ở đây, xa hẳn với cách tư duy trầm mặc mà cô chịu ảnh hưởng ít nhiều từ ngôi chùa cạnh nhà. Rồi một mai khi tuổi xế chiều, cô lại nói với đám con cháu rằng mình mong muốn được trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Lúc ấy ngôi chùa cũ chắc vẫn còn đó, mà tháng năm tường nghiêng ngói đổ càng làm cho lòng người trởû về man mác chút lòng hoài niệm xa xôi về một thời đã mất:

-“ Ta tìm về lối xưa

Nhưng đường xưa mòn dấu…

Trăng mấy mùa đã qua,

Mưa rơi đã mấy lần…?

Ở đâu thì cũng với chừng ấy thời gian và không gian. Khác chăng vì sự thế xoay vần, nên con người đôi khi cũng phải vần xoay theo cho hết đời dâu bể. Nói gì thì nói, mai này cô cũng đi rồi. Ngôi chùa và cảnh tượng hôm nay, chỉ còn là chút mờ sương động lại trong ký ức. Cuộc hành trình dường như chỉ mới bắt đầu. Dù sao thì lá vẫn xanh, bầu trời vẫn toả sáng, và đời người thênh thang trong nẻo sống vẫn cứ phải ươm mầm cho bao chồi non khác vươn xa. Ôi! những chiếc lá xanh, dù mi có tồn tại hay không thì niềm tin về một ngày mai luôn tỏa sáng.

3- Câu chuyện chiếc lá về nguồn chỉ còn lại chứng nhân duy nhất là mấy gốc cây bàng già cỗi đi qua cùng năm tháng. Sân chùa ngày thường chỉ đón nhận đám thanh thiếu niên thích tìm nơi yên tịnh học bài hoặc để dạo chơi ngắm cảnh. Cô gái áo xanh áo hồng ngày trước thôi không còn lai vãng. Một cơn gió thoảng, một chiếc lá vàng vừa rời khỏi sự sống trên cành nào còn ai bận tâm bình phẩm hay triết lý về cội nguồn của nó. Ngôi nhà bên bức tường rêu đã đổi chủ. Cô gái áo trắng đã đi về một phương trời khác rồi. Có lẽ cô đã đi thật xa. Nơi xứ lạ chắc không rãnh rỗi ngồi nhìn lá rụng mà suy tư vẩn vơ về thân phận kiếp người. Tất cả rồi cũng nhanh chóng lãng quên theo mỗi bước đường vân du vô định.

Sông dài cá lội bặt tăm

biết đâu lối cũ mà tìm về thăm”

Vị sư già mỗi sáng ra quét sân, dọn sạch lá rụng để cho đám học sinh có nơi chỗ đến học bài. Gương mặt sư vẫn điềm đạm ung dung trong tà áo lam thanh thoát. Và chưa bao giờ Sư tỏ ý phàn nàn khi bọn trẻ chơi đùa thích níu bứt mấy cành lá xanh vứt bừa cả sân. Lá xanh lá vàng thì cũng sẽ nằm gọn dưới một nhát chổi thôi. Mà đâu phải chỉ có lá vàng mới trở về nguồn cội, đôi khi lá xanh vẫn chịu cảnh xa ngọn lìa cành. Không biết trong lòng sư có khởi lên ý niệm đó không, thỉnh thoảng chỉ thấy người ngước lên như để lắng nghe tiếng hót líu lo của mấy chú chim sâu đang di chuyển qua lại trên cành cao.

..Dưới mặt đất lá vàng vẫn rơi rụng, ngày tiếp ngày hằn sâu thêm vóc dáng một đời người cặm cụi theo thời gian. Trò chơi nhân thế buộc mọi người mãi loanh quanh để vui thú cho trọn với cuộc đời, nào có mấy ai cất công tìm hiểu...xem đâu là nguồn cội để quay về/.

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4706)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6638)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4863)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10107)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3624)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4825)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5057)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7552)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4237)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13463)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]