Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đồng vọng quê hương

10/04/201312:02(Xem: 4407)
Đồng vọng quê hương

chuathienmu1

ĐỒNG VỌNG QUÊ HƯƠNG

Lam Khê

---o0o---

( Cảm nghĩ nhân đọc bài thơ “NHỚ CHÙA” của Hòa Thượng Mãn Giác )

Hình ảnh ngôi chùa, dòng sông, cây đa bến nước đã quá đổi thân quen và gắn bó đời người qua từng làng xã quê hương. Để rồi khi tất cả khung cảnh nên thơ bình dị ấy chỉ còn là chút hoài niệm xa xôi thì nó bổng trở thành một thứ biểu tượng thiêng liêng, ẩn chứa biết bao niềm thương nỗi nhớ đến nao lòng...

Có những cái đẹp mộc mạc chân tình như hương đồng cỏ nội. Có những cái đẹp mênh mông dàn trải như núi thẩm non ngàn. Hoa cỏ nào thì hồn sắc nấy. Tính ước lệ của vạn tượng sum la, luôn là mạch nguồn cho bao ý nhạc hồn thơ bay bổng. Chính vì thế mà mỗi lần dạo qua khung trời thi ca rộng mở, tôi lại bắt găïp những cái đẹp muôn sắc lắm màu, đôi khi phải gạn lọc suy tư, có lúc thì bâng khâng nghiền ngẫm. Cuối cùng điều đọng lại bao giờ cũng là một mảnh tình quê chân phát mà làm day dứt...suốt cả một đời người không nguôi tìm kiếm.

Bất ngờ đọc lại bài thơ “ Nhớ Chùa” vừa được in trên báo- bài thơ mà tôi từng yêu thích trong suốt hai mươi năm qua, lòng chợt bồi hồi xúc cảm như lần đầu tiên được trùng phùng với nàng thơ kỳ ảo, hay cuộc tao ngộ đầy duyên nợ của kẻ học đòi nghiệp dĩ văn chương. Hai hay ba mươi năm thì lộ trình của một bài thơ hay chưa thể gọi là dài. Vậy mà ngần ấy thời gian cũng đủ cho hồn thơ ấy vươn xa làm lay động hằng triệu triệu con tim người trên khắp miền xuôi ngược. Bài thơ được in trang trọng như biểu lộ sự tôn vinh kính ngưỡng, thầm gởi nén hương lòng đến bậc Tôn Đức khả kính vừa rũ bỏ cảnh trần gian tạm bợ. Sau bao nhiêu năm, bài thơ vẫn mang đậm dấu ấn thiêng liêng của tình người viễn xứ trăn trở mãi bởi một tiếng chuông chùa vọng lại từ cõi trời quê xa thẳm..
.

-Từ thuở ra đi vắng bóng chùa,

Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua.

Trong tôi đã bừng dậy niềm chua xót

Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa.

Lời mở đầu cũng là lời tự kết về cái “thuở ra đi... vắng xa mái tranh chùa yên ả...đến con đường đời hơn thua vinh nhục thì làm sao tránh khỏi bước ngắn bước dài đầy nổi chông chênh lao nhọc”...từ đó mà “bừng dậy niềm chua xót” cho một kiếp người làm khách tha phương. Miền quê hương qua dáng dấp một ngôi chùa làng, là hình tượng khá tiêu biểu trong thơ ca. Nhưng “nhớ chùa” lại mang một hơi thở lạ. Rất lạ. Thổi đúng mạch nguồn vào cái thời mà làng quê còn xa tăm tít, thấp thoáng nơi bến bờ là nỗi nhớ thương hoài niệm không nguôi lòng “ Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung....” Thế đấy! Chùa chung nhưng niềm riêng thì canh cánh, dạo mãi khúc ly hương cho đời mà người nhạc sĩ tài hoa chưa thể khua động cho mình một khoảng trời xanh để nhẹ gót phiêu bồng, nên đành chấp nhận làm gã Cùng Tử lang thang rong ruổi qua muôn ngã rẽ.

Không gian của miền quê ngập vàng ánh nắng. Lời thơ tả chân mộc mạc mà thâm thúy, câu chữ nhịp nhàng mà ý tứ bay xa. Với dung lượng chưa quá mười bài thất ngôn tứ tuyệt, cũng bao quát một bức tranh quê với đầy đủ cả sắc hồn, cả tình ý; Dù cảnh tượng làng quê ấy lắm khi chỉ “thấp thoáng bên lòng....một con đường đỏ ... vài hàng tre xanh.. một chút khói hương trầm phảng phất, cùng bóng dáng Đức Phật từ bi mỉm miệng cười” Tôi tâm đắc với câu“ Cây mai già sống trọn đời, bên hàng tùng bách mãi xanh tươi”Cây mai thì có mặt khắp vùng nhiệt đới, chẳng riêng gì xứ Nam bộ quê mình. Ở đâu mai cũng lung linh một sắc hoa vàng, vẫn nhẹ thoáng qua làn gió xuân ấm áp. Những cây mai cốt cách thanh mảnh mà có sức sống bền bĩ quanh năm. Những hàng tùng bách xanh tươi thì lại muốn vươn xa tỏa bóng khắp cõi nhân tình ...Hình tượng vừa rõ ràng vừa kín đáo ấy lại đẹp một cách thanh nhã cao kỳ, làm sáng rực cả cánh đồng quê vốn quen sống yên bình bên lời kinh tiếng mõ.

Bây giờ tôi mới hiểu...vì sao người ta bôn ba bận rộn cả đời mà vẫn không quên gởi lòng về cùng tiếng chuông xa. Chuông vẳng nơi nao lại nhớ tiếng chuông quê mình đến thế. Bởi ở đâu có tiếng chuông nghe rõ cả hồn thiêng sông núi tự hào, nghe rõ mọi âm hưởng trầm hùng sâu lắng giữa thinh không. Mái chùa quê dù phong rêu cổ kính, vẫn là nơi chở che hồn dân tộc, là nếp sống muôn đời của Tổ Tông. Tình làng nghĩa xóm đã gắn bó nhau cả đời, thì mái đình, hàng cây, dòng sông, bóng nước mãi mãi là một chốn quê hương để ai ra đi cũng vương vấn nhớ về.

Biết đến bao giờ trở lại quê, Phân vân lòng gởi nhớ thương về...”Đã là chùa chung thì nỗi niềm này đâu chỉ riêng ai.“ Nhớ chùa” dù mang hơi thở của thời đại, là tâm sự của riêng mình mà cũng là tiếng nói chung của muôn thế hệ người đi qua. Cảnh “chim Việt cành Nam” từng làm xao xuyến bao mảnh đời phiêu bạt, và đó cũng là bản hợp tấu xuyên dài trên con đường du phương hành hóa của không ít bậc chân tu đương đại. Người ra đi cũng có lúc phải quay về. Cánh hạc bay xa còn tỏ lòng đoái thương đời dâu bể. Cuộc sống là sự tiếp nối không ngừngï. Ai đi ai ở đều chung hưởng một vầng trăng nơi quê mẹ, vậy thì bận bịu làm chi chuyện đến đi, để lòng cứ phải băn khoăn tự hỏi đến bao giờ....

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20437)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3939)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8628)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8259)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9733)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4834)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2985)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4139)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3843)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]