Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đường lên núi Cấm

10/04/201311:56(Xem: 5019)
Đường lên núi Cấm

nui cam 



ĐƯỜNG LÊN NÚI CẤM

Lam Khê

---o0o---

Tùy bút




Bốn giờ sáng…đòan khảo sát xuất phát từ Chùa Đông Lai tiến dần về vùng núi Cấm. Đòan đi hai xe khoảng hơn sáu mươi vị. Gồm có thầy Chủ nhiệm, quý Thầy Giáo Thọ, tăng ni sinh của ba lớp Hán Nôm cùng các vị phật tử. Hôm nay đã bước sang ngày thứ hai, và là lộ trình chính của chuyến tham quan. Khi còn cách chân núi khoảng gần câysố thì mọi người bước xuống, bắt đầu một cuộc du hành…vượt núi băng ngàn.

Tôi đi theo phái đòan đầu tiên có quý thầy dẫn đường, nhưng lần hồi bị tụt lại phía sau. Cũng may là có một số còn chậm hơn, cùng nhập bọn lại đi chung với nhau. Những người đi đoạn hậu thì chẳng cần gì phải vội vã. Đòan có sáu vị, hai thầy và bốn cô-đều học khác lớp. Trên đường đi lại góp nhặt thêm vài thành viên bị bỏ rơi lại nữa. Đi một đoạn khá xa, tôi nhìn lên ngút mắt cũng chẳng thấy tăm hơi bóng người; nhìn lại đằng sau thì chỉ có tiếng lá cây xào xạt cùng làn sương đêm giăng kín mịt  mù. Trời vẫn còn tối lắm. Cả đoàn bắt đầu ca hát và chuyện trò rôm rã cho quên bớt đường dài. Tôi tìm được cây gậy, rồi vừa thông thả bước đi, vừa khe khẻ ngâm nga một vài câu thơ. Thiên nhiên đối với tôi luôn là người bạn chí tình chí nghĩa. Có điều…lần đầu tiên leo lên ngọn núi cao hơn sáu cây số….mồ hôi ướt vã cả người, tôi chẳng còn mấy tâm sức để mà thưởng ngọan cho hết bao vẻ đẹp giữa cảnh núi rừng hùng vĩ.

Khi trời sáng hẳn thì chúng tôi đã leo lên được lưng chừng núi. Mọi người ghé vào một quán nước ngồi nghỉ và gọi cà phê uống. Tôi leo lên một tảng đá nhỏ, phóng tầm mắt nhìn quanh khắp chốn. Cảnh núi rừng buổi sáng sao mà yên ả quá. Không một tiếng chim rừng ríu rít. Không cả một cơn gió nhẹ thoảng qua. Trong sự bình yên tĩnh mịch này, tôi bỗng nghe có tiếng róc rách của suối ngàn. Dòng suối từ trên đỉnh cao đổ xuống ở phía bên kia thung lũng; vì bị che chắn bởi rừng cây trước mặt nên tôi không trông thấy gì. Nhưng tiếng suối reo trong nắng sớm, khung cảnh núi đồi huyền hoặc như sương khói khi gần khi xa…gợi cho lòng người biết bao là thi vị. Bất chợt đã làm cho tôi nhớ đến bài thơ của một nhà thơ cổ nổi tiếng:

“Bầu trời cảnh Bụt

Thú Hương Sơn ao ước bây lâu nay

Kìa non non nước mây mây

Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái

Lửng lờ khe yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giất mộng

Này suối Gỉai Oan

Này non Phật Tích

Nhát trong lên ai khéo vẽ nên hình”

Ơû đây nào phải là “Hương Sơn phong cảnh” của thi sĩ Chu Mạnh Trinh, nên làm gì có đệ nhất động. Cũng chẳng có: “rừng Mai, khe Yến”, không có cả “suối Giải Oan”cùng “Am Phật Tích”. Nhưng non nước mây trời và cảnh bụt thì chắc là không thể thiếu. Đoàn “du khảo” chúng tôi đang lần tìm về cảnh Phật. Nơi in dấu tích của các bậc tiền nhân đi khai sơn mở đất. Đến đây rồi mới thấy hết sự bạt ngàn của sông núi Quê hương. Đến đây mới thấm hiểu được muôn vàng sự khổ nhọc của con người. Những ngôi chùa mang tầm vóc qua các thời đại. Những ngôi đền thờ chứa đựng biết bao điển tích hiển linh thần bí. Bao nhiêu đó cũng đủ hình thành và tồn tại để cho người đời sau  có dịp chiêm bái tự hào. Còn người đi xây đắp thì cứ mãi cần cù lặng lẽ giữa chốn rừng sâu im vắng.

Dọc đường chúng tôi cứ phải dừng lại nghỉ ngơi bên mấy quán cốc. Quán nào cũng treo đầy những chiếc võng miễn phí để chào mời khách. Họ bày bán đủ các thứ trên đời. Từ quà lưu niệm, thức ăn chay, đồ uống đủ loại…cho đến thuốc chế biến từ cây rừng và cả dầu thoa bóp .Có quán còn chưng dọn cả dàn karaoke hát ca inh ỏi (núi rừng bây giờ cũng văn minh lắm rồi).Trên đường tôi gặp rất nhiều người dân tộc. Họ trao đổi với nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, nhưng tôi đoán biết là họ cũng đang miệt mài nói về công việc làm ăn. Bứơc chân của họ đi xuống một cách thoăn thóăt lẹ làng. Khi đi lên, họ trải từng bước vững chắc trên các bực thang đá thẳng đứng.Trên vai họ là những gánh hàng hóa nặng trĩu…nào là vật dụng đồ đạt của khách, nào là gạch ngói sắt đá xây dựng, cho đến những giỏ mít, chuối,dâu được mang từ trên núi cao xuống.

Còn chúng tôi, sau khi gởi hết mọi tay nải, túi xách cho nhẹ nhàng…Mỗi người chỉ mang theo một chiếc gậy, một cây quạt phe phẩy ma øthung dung cất bước, cứ y như các vị thiền sư đi dạo cảnh Yên Tử thuở xưa. Dù sao thì đi chậm vẫn có cái thú riêng của nó …Bởi lẽ .tôi sẽ được nghiền ngẫm cho hết những đoạn đường dốc đá cheo leo khúc khuỷu lượn quanh các triền núi. Chúng tôi lai có dịp nhìn ngắm bầu trời xanh thẩm một cách thỏa thích mỗi khi …ai đó thấm mệt, phải dừng lại chống gậy ngửa mặt lên trời để thở. Rồi  còn gì thú vị hơn khi đã quá mỏi mệt vì đói, chúng tôi lại tạt vào một quán ven đường để thưởng thức món ăn đặc sản của núi rừng. Đó là những chiếc bánh xèo nóng hổi, ăn kẹp với vài món rau rừng có cái mùi vị chua chua chát chát mà sao cảm thấy ngon miệng lạ thường.

Đến quá chín giờ sáng thì đoàn chúng tôi cũng leo lên được tới cổng chùa. Tất cả mọi người đều đã lên trước  đó một vài giờ, đang  ngồi nghỉ bên các dãy hành lang hoặc đi ngắm cảnh. Khi đứng trước ngôi chùa Vạn Linh đầy vẻ uy nghiêm và tráng lệ. Tôi hầu như trút hết bao gánh nặng trên đường. Chùa do Hòa Thượng Trí Tịnh khai sáng từ mấy chục năm nay_khi ấy được gọi là chùa lá. Tên gọi này đã trở thành quen thuộc với người dân ở đây; dù bây giờ chùa được xây dựng lại khá khang trang. Phía trước mặt chùa sừng sững một ngọn tháp cao bảy tầng.Đi từ xa, tôi đã nhìn thấy ngọn tháp này.Tháp vẫn còn dở dang nhưng đã lộ rõ vẻ nguy nga trang trọng .

Dù rất mệt nhưng tôi vẫn thích thả bộ dạo quanh khuôn viên chùa, để được ngắm nhìn mọi công trình đồ sộ và tận hưởng hết mọi sức sống đang vươn lên từ trong lòng đất .Ở đây con người và vạn vật dường như có sự cảm thông lẫn nhau. Phải chăng sống giữa khung cảnh yên bình này ,lòng người trở nên cao thượng và gần gũi với muôn lòai hơn. Niềm tin sẽ thắp sáng mọi chân trời phía trước, ý chí chính là động lực sáng tạo nên bao kỳ quan cho hậu thế .Ngày trước ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh tận bênTây Vực cũng bắt đầu từ một niềm tin và ý chí. Trải qua 17 năm gian khổ, ngài một mình “vượt suối băng ngàn, chịu đựng mọi sự nóng lạnh khắc nghiệt của thời tiết. Trên đường đi, ngài chỉ biết nhìn theo đám khói mây mù, dẫm trên sương tuyết mà lần hồi tiến về phía trước. Như vậy thì làm gì có được quán trọ đường hoàng để dừng bước nghỉ chân. Thậm chí đến tiếng gà gáy trong am tranh, dấu chân người qua lại chốn cầu đường cũng không hề thấy. Ngài lại phải vượt qua những dãy núi tuyết cao hơn nghìn dặm, những bãi sa mạc mênh mông. Trên không một tiếng chim kêu, dưới không một bóng thú chạy, lại luôn đối mặt với muôn vạn lần cái chết”. Sự ra đi đầy mạo hiểm của ngài Huyền Trang hoàn toàn do lòng tự nguyện. Tâm chí thành thiết tha vì đạo, cùng nguyện lực sâu dày đã giúp ngài bao lần thoát hiểm nạn, để rồi cuối cùng trở về trong niềm tôn nghinh kính phục của muôn  người, muôn đời.

Màn đêm buông xuống bao trùm mọi cảnh vật. Vậy mà bên trong chùa Vạn Linh hầu như khác hẳn. Dòng điện từ chiếc máy phát ra tỏa chiếu sáng rực. Trên khắp các dãy hành lang chánh điện, nhà tổ, nhà khách chật kín khách hành hương nghỉ lại qua đêm. Tiếng tụng kinh trầm ấm vang xa.Tiếng náo nhiệt của du khách viễn phương làm khuấy động một góc không gian tĩnh lặng. Một sự khuấy động khá là yên lành và thánh thiện. Rừng núi về đêm…bầu trời không trăng sao, mọi vật lại xa khuất tầm nhìn. Trong cảnh bàng bạc của màu trời, tôi cảm nhận có cả hơi thở của từng nhựa cây đang tuôn chảy. Vạn vật hữu tình…  để cho con người  thao thức mà suy nghiệm trong thinh lặng của lòng mình.

Đến nữa khuya thì cơn mưa bất chợt đổ xuống. Những giọt mưa rỉ rả thâu đêm như cố níu bước chân ngưòi ở lại. Thế nhưng, dù muốn dù không thì sáng mai này, đoàn du khảo chúng tôi cũng phải xuống núi. Đoạn đường đi xuống dù trơn trợt vẫn dễ chịu hơn nhiều. Mọi việc đến đi là điều tất yếu, thì sự lưu  luyến chỉ là chút khoảnh khắc nhất thời để tỏ lòng gắn bó. Mai này xin từ giã rừng núi uy linh ngàn năm còn in dấu chân người khai phá. Xin từ giã cảnh  chùa xưa còn chìm trong sương mờ mà vần quang đã tỏ rạng. Ngày mai khi trở lại thành phố, tôi xin mang về chút tình nắng gió phương xa…để lấy đó làm tin và cũng để trang trải lòng mình với muôn trùng sự sống bao la./.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4710)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6648)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4876)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10114)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3640)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4832)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5061)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7565)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4237)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13476)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]