Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một thoáng Tây Nguyên

10/04/201311:51(Xem: 4388)
Một thoáng Tây Nguyên

nguoithieusovietnam_1

Một thoáng tây nguyên

(tùy bút)

Lam Khê

---o0o---

Chuyến xechở quý cô, phật tử cùng phẩm vật gạo mì xuất phát từ TP Hồ Chí Minh đi lên vùng Tây nguyên Đắc lắc. Trước đó một ngày, một chuyến xe khác đã vận chuyển sáu tượng Phật, Bồ tát đến ngôi Niệm Phật đường vừa mới thành lập trên đó. Hàng hóa cùng việc thỉnh tượng đều do quý sư cô chùa Kim Sơn quyên góp và tổ chức chu đáo mọi việc đi lại ăn uống trong suốt hai ngày đường.

Tôi cùng một số chị em được chùa đặc cử đi hỗ trợ theo đoàn. Ngoài việc phát quà cho bà con vùng xa còn khó khăn, Qúy cô sẽ tụng thời kinh cầu an để tôn trí an vị những pho tượng vừa thỉnh. Điều đặc biệt đầu tiên mà tôi nhận biết trong chuyến đi này là nhóm Phật tử của chú Dũng đi theo xe đều là những nghệ nhân chuyên trách việc sơn vẽ tượng Phật cho các chùa( gọi nôm na là đắp áo lại cho tượng ). Họ bỏ tiền mua các loại sơn nước sơn dầu, còn kinh phí chuyên chở thì chùa lo. Hằng tuần vào ngày thứ bảy chủ nhật thì nhóm đi đến các chùa( Đã liên hệ mời trước) sơn áo lại các bức tượng cũ hoặc những tượng mới tạc. Tôi đã nhìn thấy những pho tượng vừa được sơn mới với từng đường nét đặc sắc tinh tế mà vẫn hài hòa trang nhã. Nhóm có trên mười người, có đủ nam nữ lão ấu trung niên. Ai cũng mang sẵn một bầu nhiệt huyết và một niềm tin tưởng đạo pháp sâu xa, nên họ không ngại tìm đến các nơi vùng xa xôi hẻo lánh, gặp khi gặp đường xá trắc trở, thiếu thốn mọi tiện nghi cần thiết. Vậy mà đi đến đâu nhóm vẫn nói cười vui vẻ, hoàn thành mọi công tác phật sự một cách nhanh chóng. Một việc làm có tính cách công quả, nhưng mang nhiều tâm nguyện thiết tha vì đạo Pháp....mà hơn hết là muốn phát huy những cái đẹp chơn thiện mỹ đến khắp cùng nhân sinh- xã hội.

Địa điểm mà đoàn chúng tôi đến là xã Dleiyang, huyện Ea H’leo, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuật hơn 80 km. Suốt mười tiếng vượt đường xa, ai nấy đều mệt lã theo từng con dốc quanh co, núi đồi khúc khuỷu; Nhưng khi được ngắm những khu rừng thông xanh ngát, những vuờn cà phê trải dài đến ngút mắt, thì mọi người gần như xua tan hết nỗi mệt nhọc đường dài. Nơi chúng tôi đến là một xã ven núi, đất đai trù phú, dân cư đông đúc, phần nhiều là người Kinh từ miền ngoài vào lập nghiệp; Gần đó cũng có nhiều bản làng của người dân tộc. Nông sản chuyên canh ngoài cà phê, tiêu, cũng có khá nhiều cây trái khác, và lúc này những cánh đồng bắp đang mùa sai hoa nặng quả. Vì nằm trên địa bàn xa xôi, nên vẫn có không ít những hộ dân còn khó khăn nghèo khổ. Điều bất ngờ thứ hai mà tôi cảm nhận được ở đây chính là sự thiếu thốn vật chất chẳng có nghĩa lý gì so với việc thiếu thốn về mặt tinh thần. Chính sự đón tiếp quá ư long trọng của mọi người dành cho đoàn, cho quý sư cô- những người xuất gia mang tâm hạnh lợi tha, đã cho tôi thấy rõ điều đó khi xe của đoàn vừa tới. Các cụ lão, những thanh niên nam nữ và cả mấy em nhỏ năm bảy tuổi, tất cả đều trang nghiêm trong chiếc áo tràng lam truyền thống hay tề chỉnh với những bộ đồ hướng đạo sinh của gia đình phật tử. Họ đứng thành hai hàng chấp tay cung thỉnh, vẻ mặt biểu lộ niềm tôn kính hân hoan tột phần, lòng chí thành hướng đến những con người đang làm nhiệm vụ hoằng pháp lợi sinh.

Chúng tôi phát mì, gạo, tiền và quần áo cũ cho dân ngay tại nhà của vị đại diện Khuông Hội- Nơi vừa đón tiếp đoàn. Ngôi nhà ba gian không lớn lắm, lại dành riêng một gian thờ Phật khá trang nghiêm rộng rãi. Đây là nơi mà trong suốt mười lăm năm qua, các Phật tử trong thôn xã hằng đêm cùng đến tụng kinh bái sám. Sau này mọi người quyên góp xây dựng nên ngôi chánh điện trên mảnh đất riêng để thờ Phật (Họ tạm đặt tên là Niệm phật Đường Quảng Giang_ Quảng là để tưởng nhớ đến quê hương Quảng Trị. Giang là gọi trại từ âmYang trong từ Dlieyang). Dự định khi hợp thức hóa thành ngôi Chùa sẽ thỉnh tăng về trụ trì. Bác Đại diện Khuông hội nói với chúng tôi:

_ Bà con từ lâu vẫn khao khát chờ đợi một ngôi chùa đúng nghĩa. Một vị thầy lãnh đạo cùng một môi trường Phật Pháp để sinh hoạt và học tập giáo lý, nâng cao đời sống tinh thần. Nay ngôi chánh điện thờ Phật đã xong. Nhờ quý cô liên hệ xin tượng rồi chuyên chở về. Có Phật Bổn Sư, Quan Âm lộ thiên, rồi đức Quan Âm, Thế Chí, có cả Hộ Pháp...Ông Tiêu. Từ đây chúng con có nơi thờ Phật, có chốn trang nghiêm để lui tới tụng kinh niệm Phật. Thật không có gì vui mừng hơn nữa. Duy chỉ còn chờ một vị Đại Đức tăng (Hoặc Ni) về để chúng con nương nhờ học hỏi thêm về giáo lý nhiệm mầu, để con đường tu tập của mọi người được trọn phần công đức.

Một mong muốn rất bình thường và chánh đáng. Vậy mà niềm mơ ước ấy lại quá xa vời đối với những cư dân ở đây. Đã hơn hai mươi năm sinh cơ lập nghiệp nơi vùng cao mà cả xã vẫn chưa có được một ngôi chùa. Thỉnh một vị tăng sĩ về truyền đạo độ sinh là điều mà ai cũng mơ ước. Mấy em nhỏ đang học phổ thông cơ sở cũng nói với tôi như vậy. Thì phải chờ duyên lành đến ngày hội tụ thôi. Tôi nhủ thầm với mọi người, trong lúc vừa soạn những bộ quần áo cũ ra phân phát, vừa tranh thủ vài giây phút rảnh tay đảo mắt nhìn quanh mấy đồi núi xa xa ẩn mình trong làn sương chiều lãng đãng. Non xanh mây trắng hữu tình, trời cuối thu mát dịu mà lòng người đến đi với cuộc đời sao vẫn còn quan san cách trở. Ý nghĩa Tăng đáo Phật lai thật quá rõ ràng với nơi mà chúng tôi vừa bước chân đến lần đầu. Mới quen mà xem như đã thân thiết từ muôn kiếp. Đó có thể gọi là nhân duyên của những người con Phật, cùng gặp nhau trên một lộ trình tu đạo theo giáo pháp Phật Đà.

Đến một nơi mà mọi người luôn khao khát có dấu chân những sứ giả Như lai tìm đến, vậy mà đoàn sứ giả chúng tôi chỉ lưu lại có vài giờ ngắn ngủi. Phát quà xong thì trời đã nhập nhoạng. Tôi muốn dạo quanh xuống sườn đồi cà phê và chè phía trong xa một chút mà không thể được.(Nơi chúng tôi ghé lại chỉ có những vườn tiêu xanh tốt), vì lúc này đoàn đã đi bộ đến ngôi Niệm Phật Đường cách đó vài trăm mét để tụng thời kinh cầu an cùng an vị Phật. Nhìn ngôi Chánh điện nhỏ nhắn với những tượng Phật, Bồ tát màu nước sơn mới đầy vẻ trang trọng uy nghiêm, lòng tôi tràn ngập niềm quý kính và thương cảm đến những con người đang tự mình vui sống trong ý hướng tìm cầu chơn lý. Một ngôi chùa mang hình dáng quê nhà, là để nhắc nhở bao thế hệ cháu con dù có bôn ba xuôi ngược cũng chớ quên cội nguồn xứ sở. Con người ta dù đi đâu về đâu vẫn giữ cho mình có được một niềm tin trong sáng, một đời sống nội tâm vững vàng và trên hết là một ý chí hướng thượng. Điều ấy tôi đã bắt gặp ở đây. Nơi những con người mà hoàn cảnh không làm thay đổi được tâm thức trở về bên mái nhà Phật Pháp.

Sau thời khóa an vị Phật thanh tịnh và thắm trọn tình đạo vị, chúng tôi trở về nhà Vị đại diện Khuông hội dùng cơm tối. Một bữa cơm chay thật quá thịnh soạn, với đủ món ngon lạ chẳng thua gì các nhà hàng chay có tiếng ở Sài Gòn. Lại có chè xôi và các loại bánh trái mang đậm chất cây nhà lá vườn như bánh nậm( nếp), bánh ít gai, bánh bột lọc, và mấy dĩa khoai mì khoai lang nóng hổi. Chắc quý vị đã chuẩn bị suốt mấy ngày trời. Dù đói nhưng chúng tôi chỉ có thể nếm qua mỗi thứ một ít. Khi lên xe lại thấy những bịt đầy bánh, khoai, bắp nấu và những quày chuối xứ xanh to. Ai đó đã nói vui:- Đoàn mình có đi suốt đêm và cả ngày hôm sau vẫn không sợ đói. Tôi nhìn ra băng ghế sau cùng...vốn là nơi chất đầy vật phẩm gạo mì khi đi, bây giờ được thay thế bằng các món ăn liền của vùng rừng núi. Lại có những gói cà phê, tiêu, một cây đa kiểng, mấy bụi hoa sói, hoa lan đất làm tặng phẩm cho quý cô và phật tử trong đoàn mang vềù. Tuy rất muốn nghỉ đêm tại đây, nhưng chúng tôi vẫn phải nói lời từ giã.( mọi người đã chuẩn bị chăn mùng gối chiếu cho đoàn) Lúc này tâm trạng của người đi vẫn như còn luyến tiếc khi cảnh vật và đời sống dân tình chưa vơi hết tầm nhìn tầm nghĩ. Người ở lại thì chia tay trong nỗi bồi hồi vì khúc đạo hữu thâm giao chưa hàn huyên hết mọi lẽ. Biết làm sao hơn được. Đêm nay chúng tôi sẽ dong ruỗi trên con đường dài để tìm đến ngôi chùa Sư Huynh của cô Quảng Nhật- mới từ miền Nam ra trụ trì được vài tháng. Để sáng hôm sau đoàn phải trở về Sài Gòn. Một chuyến đi ngắn hạn, mà đoạn đường ngồi xe lại dài thăm thẳm. Ngẫm lại những gì mình đem đến cho cuộc đời thật chẳng đáng là bao, mà niềm tri ân và sự kính ngưỡng của lòng người thật vô cùng vô tận.

Xe chuyển bánh rời Dliyang vào lúc hơn bảy giờ tối mãi đến gần 11g đoàn mới đến chùa Tịnh Quang ở xã Krông Buk, huyện Krông Păk (cây số 44-QL 26 ). Một chú phật tử của chùa đã lên đón chúng tôi từ chiều. Chú hướng dẫn đi đường tắt, gần hơn hai phần ba đoạn đường( Đi đường ngoài phải mất trên một trăm cây số), nhưng do đường rừng mới mở và vì cuối mùa mưa, nhiều đoạn bị cày xới lồi lõm nên rất khó đi. Có lúc xe phải mò mẫn đi trong bóng đêm chỉ với rừng cây dày đặc hai bên đường mà không có lấy một ngôi nhà dân. Chiếc xe du lịch phải cố trườn mình lên một cách chậm chạp để vượt qua những ổ voi ổ gà vừa sâu vừa lầy lội. Cả đoàn chưa hết nỗi lo vì đường quá xấu, sợ lạc trong rừng sâu đêm tối thì lại xảy ra sự cố - Bánh xe cua nằm dưới bụng xe bị rơ ốc vít gần rớt xuống, may là bác Tài phát hiện kịp. Xe phải dừng lại bên khu rừng vắng vẻ không một ánh đèn. Chỉ có đèn trong xe tỏa sáng, nhưng không thể soi xuống gầm được. Chẳng ai mang đèn pin và bật quẹt cũng chẳng có ( Đủ biết các vị nam thanh đi trong đoàn không biết hoặc không thích hút thuốc khi đi chùa) Mọi người đành phải sử dụng chút điện năng của chiếc điện thoại di động để soi rồi gỡ bánh xe ra đem vào bên trong.

Cuối cùng thì chiếc xe cũng đưa chúng tôi đến được nơi cần đến. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm và bảo nhau :_ “Thật là một chuyến đi nhớ đời” Ừ! Thì cũng phải có kỷ niệm để mang theo về chứ. Con đường tây nguyên đầy đất đỏ và lắm sương mù thì không xa lạ gì với người từng đi đây đó. Duy vớiù những ai từng trải nghiệm qua đêm- dù chỉ vài giờ- trong rừng sâu núi thẳm thế này, mới thấy hết sự mịt mù của chốn tăm tối u linh. Đi con đường nào một khi chơn lý hiển bày rồi cũng tới đích. Con đường tắt thì luôn gập ghềnh chông gai mà không phải ai cũng qua được. Nhưng khi đã vượt qua rồi thì mọi trúc trắc bên đường chẳng còn gì đáng ngại. (Tôi nghĩ ra điều này khi đã an toàn về đến chùa)

Hai ngày một đêm đặt chân lên vùng đất Tây nguyên lộng gió với núi đồi trùng điệp, mà phần lớn thời gian chỉ yên vị... trên xe. Mọi cảnh vật thoáng nhanh qua tầm mắt, nhưng ấn tượng để lại trong lòng tôi nhiều điều thật tốt đẹp. Không đẹp sao được, khi tiếng thông reo vẫn vi vu theo gió ngàn, bản hòa âm của núi rừng cùng cây xanh nắng gió vẫn ngập tràn trong cuộc sống đời người qua ánh đạïo. Con đường trở về êm xuôi và vui vẻ hẳn lên bởi tiếng hát véo von của mấy em nhỏ đi theo đoàn. Tôi nhận thấy vài nụ cười tươi cùng không ít nỗi ưu tư trầm lắng trên từng khuôn mặt còn rám bụi đường. Một chuyến đi mang đầy ý nghĩa và lợi ích thiết thực nhiều hơn tôi tưởng. Cuộc sống thường là vậy đó. Có gian nan mới biết trăn trở với cuộc đời, có đi khắp chốn mới thương quá những con người còn lắm nhọc nhằn trong nẻo sống./

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3646)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13056)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4248)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 5015)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10248)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4754)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6101)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7539)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 32000)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5439)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]