Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sắc hoa màu biển

10/04/201311:47(Xem: 4187)
Sắc hoa màu biển

bai_bien_nha_trang

Sắc hoa màu biển

Lam Khê

Ngôi nhà màu xám tro nằm vắt ngang lưng chừng một ngọn đồi, có lối kiến trúc như tu viện, được bao bọc bởi hàng cây sao thẳng tắp. Nơi đây nằm cách xa đường cái. Nhưng phóng tầm mắt có thể nhìn thấy bờ biển cát trắng cùng những đợt sóng nhấp nhô mà mỗi khi ráng chiều buông xuống, thường toả ra những tia sắc vàng lung linh tuyệt ảo.

Quế Mỹ mở cánh cổng sắt bước ra ngoài. Cô thả bộ xuống con đường đá sỏi vòng quanh triền dốc. Mỗi chiều cô vẫn đi…như thể một người đang tận hưởng sự yên vui nhàn nhã. Mà cuộc đời này còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa chứ. Ngang một khúc rẽ, Quế Mỹ bước chậm lại, quay nhìn lên ngôi nhà và thấy đám trẻ vẫn nô đùa chạy nhảy bên mấy bụi xương rồng. Trông chúng thật hồn nhiên ngây thơ như những cành lan đất mọc dày đặc trong rừng, nhưng lại mang dáng vẻ bền bỉ của loài xương rồng vươn lên từ miền sỏi cát khô cằn.

Từ bé Quế Mỹ đã có một tình yêu thắm thiết với màu xanh muôn trùng nơi biển cả. Ngày Mẹ mất, cô hay ra biển ngồi khóc một mình. Từ ấy cô thích nhìn biển và nghe những bài hát nói về biển. Bởi từ lòng biển sâu xa kia là trái tim, là linh hồn của mẹ, là những gì yêu thương dịu ngọt nhất mà cuộc đời ban tặng cho thế nhân. Sau này khi lớn lên lập gia đình rồi có con, Quế Mỹ mới thắm thía câu nói của người xưa “Lòng mẹ bao la rộng lớn như biển trời lai láng…” cô dành trọn tình cảm cho đứa con mình rứt ruột đẻ ra, như ngày trước mẹ đã yêu thương lo lắng cho cô. Niềm hạnh phúc về thiên chức làm mẹ thật đơn sơ và cao quý biết chừng nào. Thế mà… tất cả vụt tan biến nhanh chóng sau cơn đại hồng thuỷ. Biển đã không còn bình lặng. Biển đã cuốn hết mọi thứ nơi này và cả đứa con trai thân yêu của cô mới chỉ hơn hai tuổi.

Có lẽ gần cả năm trời, Quế Mỹ đi thơ thẫn dọc quanh các bờ biển trong tâm trạng hoảng loạn thương tâm tột cùng. Cô nhận ra rất nhiều người cũng đau khổ như mình. Cảnh chết chóc diễn ra khắp nơi trên mặt biển, trên đất liền. Tiếng khóc than râm rức không nguôi và những bóng người thất thiểu như ma trơi chập chờn qua lại. Họ bới tung mọi hóc hẻm hang hóc để mong tìm thấy thân xác người thân bị vùi dập đâu đó. Đến bây giờ, Quế Mỹ không hiểu làm sao mình lại sống sót được trong bối cảnh đó. Cô đã mất hết những người trong gia đình mình, gia đình chồng, và thằng Mi Sa. Ôi thằng bé thật bụ bẩm xinh xắn. Nó là niềm tự hào của cô. Cô có thể đánh đổi mọi thứ, kể cả sinh mạng của mình, để cho con được sống, được làm người trong cuộc đời này. Lần cuối cùng cô bế nó trên tay, khi đợt sóng thần đầu tiên đổ ập vào; Cô bồng con chạy thoát ra khỏi nhà được một đoạn, thì ngọn sóng thứ hai dâng cao một cách dữ tợn phủ trùm lên hai mẹ con, và cả dòng người đang hốt hoảng chạy la tán loạn. Sau đó Quế Mỹ không còn biết chuyện gì xảy ra. Cho đến khi tỉnh dậy trong một trạm xá. Người ta nói cho cô hay là họ thấy cô nằm sóng soại trên một cồn cát nhỏ khi sóng rút, còn đứa bé:_ À! Có thể nó trôi dạt về đâu đó, và được ai đó nhặt được đem đến một nơi nào khác rồi. Trong các vườn trẻ tạm thời có rất nhiều trẻ con bị thất lạc cha mẹ.

Quế Mỹ đã đi hết các trang trại mà người ta dựng lên cho các nạn nhân. Những nơi tập trung trẻ em vừa bị mồ côi sau tai hoạ. Cô đã không gặp Mi Sa cùng một ai thân quen cả. Nhưng lòng người mẹ trẻ vẫn nuôi hy vọng. Cô đi tìm, cố hỏi thăm sang các vùng lân cận với ý tưởng là con cô đang được một gia đình tử tế nào đó nuôi nấng chăm sóc. Có rất nhiều đứa trẻ được cứu thoát vậy tại sao Mi Sa lại không. Cô chờ đợi về điều diệu kỳ của sự sống. Nhưng nó đã chẳng hề xảy ra với cô. Ôi! biển cả! Nơi Cô đã lớn lên, đã yêu thương trân trọng nó biết dường nào. Chưa bao giờ cảnh bãi bễ nương dâu, bèo mây tan hợp lại phơi bày ứng nghiệm ra trước mặt cô rõ ràng như vậy. Biển đã hiến dâng mọi thứ cho đời, để rồi lấy đi những gì nó muốn. Cuộc chiến đấu giữa con người và trùng dương, dường như chưa lúc nào hung hản đến vậy.

Giữa cảnh tranh tối tranh sáng của vùng hoang vắng điêu tàn sau thiên tai, luôn tạo ra những cảm giác lạnh lùng ghê rợn cho người ta khi đặt chân đến. Quế Mỹ đã lang thang khắp các nơi này. Khi không còn gì để chờ đợi hy vọng, cô vẫn đi ra biển mỗi buổi chiều để tìm lại một chút niềm khuấy động tâm tư như ngày mẹ mất. Sóng gió đã êm mà lòng người vẫn triền miên đau khổ. Đời người là một bức tranh vẽ đầy những cảnh sanh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ… Cô từng nghe nói nhiều về điều đó, đến bây giờ khi chứng kiến mọi hiện thực xảy ra, cô vẫn không thể hiểu con người ta làm sao có thể sống nổi với chừng ấy sự khổ đau.

Cảnh chiều trên bãi biển không còn giữ nguyên vẻ thơ mộng như ngày nào, dù người ta cố gắng khôi phục lại mọi thứ. Quế Mỹ chiều chiều vẫn ra đây dõi mắt nhìn về phương trời xa xăm. Chẳng có gì ngoài những bó hoa mà ngày ngày được mọi người mang tới thả xuống biển, như một cách để tưởng niệm người đã khuất. Quế Mỹ cũng tìm được một đoá hoa rừng có màu của nước biển và gởi gấm trong đó những lời nguyện cầu vô vọng của mình. Biển sẽ mang những bó hoa này đi…đi mãi cho đến tận cùng bên kia của sự sống.

- Cô có tìm thấy chút bình yên nào không khi cứ mãi đứng mãi như thế này ?

Quế Mỹ ngước lên và thấy một vị tu sĩ đang đứng cạnh mình. Hằng ngày có nhiều người như thế đến đây, mang theo đầy lòng trắc ẩn thương cảm. Những lời an ủi trong lúc này còn có ý nghĩa gì nữa không ?

Vị tu sĩ vẫn đứng đó, dường như muốn chờ đợi câu trả lời. Quế Mỹ quay mặt ra biển rồi cười khảy, cô nói như chỉ để có nói :

_ Tôi đứng đây, để được nhìn thấy những người thân yêu, cùng dân làng vô tội của mình đang ở tận dưới kia. Chắc chắn họ cũng muốn Tôi theo về đoàn tụ. Vậy còn Ông. Từ đâu lại đến đây làm gì. Chẳng ai mong cầu điều gì nơi Ông cả.

_ Tôi đến cũng như bao người khác đã từng đến. _ vị tu sĩ từ tốn nói, không bận tâm về sự hằn học của người thiếu phụ _ Những nơi mà bao tâm hồn đau khổ luôn cần được chở che giúp đở. Nơi có những con người dừơng như mất hết tất cả mọi thứ. Một lời chia sẻ cảm thông trong lúc này cũng làm họ vơi bớt niềm thương tâm....

_ Nhưng Tôi không cần những lời đó. –Quế Mỹ la lên. Nếu Ông có thể làm được điều mà Ông nói là cứu khổ ban vui đó, thì hãy làm sao cứu sống lại con trai của tôi đi. Còn không thì thôi, Tôi không muốn nghe gì nữa cả.

- Tôi không thể làm được điều như Cô mong muốn. Nhưng Tôi vẫn có thể giúp được chút gì đó chứ. Trước tiên Tôi muốn kể cho Cô một câu chuyện xảy ra từ thời Đức Phật còn tại thế. Khi ấy có một thiếu phụ đến tìm ngài với đứa con nhỏ chết cứng trên tay. Người mẹ đau khổ khóc lóc van xin Phật dùng phép mầu cứu sống đứa con trai là nguồn sống duy nhất của bà. Phật dịu dàng bảo Bà đi kiếm một nắm tro bếp nơi một gia đình nào chưa từng có người chết thì Ngài mới cứu đứa bé được. Bà ta ôm con đi khắp làng xóm thôn ấp, với hy vọng tìm được nắm tro như thế. Cho đến chiều bà trở lại chỗ Phật với đôi tay trống không và cõi lòng thanh thản. Bà đã đi hết mọi nơi. Không nhà nào không từng có người chết. Lại một lần khác. Phật gặp một người đàn bà đang đứng trước nghĩa trang khóc lóc thảm thương vì đứa con gái của bà vừa chết được chôn cất trong này. Ngài nói:_ Khu nghĩa trang này có hằng vạn đứa bé cùng tên họ như con bà. Vậy thì bà khóc cho ai đây ? Người đàn bà bừng ngộ, ngừng khóc.

_ Chỉ có vậy thôi sao ? Tôi đã từng nghe nhiều câu chuyện đại loại như thế rồi _ Quế Mỹ chậm rãi ngắt ngang, đầy vẻ bất cần.

_ Đó là chuyện ngày xưa, mà ngày nay hay bất cứ thời đại nào vẫn luôn có ý nghĩa nhất định. Không ai chờ đợi điều bất hạnh đến với mình cả. Vậy mà nó vẫn đến ở mọi lúc mọi nơi. Buồn đau mãi cũng đâu thể làm sống lại những gì đã mất. Cô hãy nhìn lại cuộc sống quanh mình đi. Bao nhiêu người cũng mất mát đau thương như cô. Nhưng mọi người đều tìm cách vươn lên để tồn tại, và để quên đi quá khứ đau buồn.

_ Nếu phải quên đi những người đã mất quả là một điều bất nhẫn...

_ Một cuộc sống có ý nghĩa cũng là một cách để tuởng nhớ, chứ đâu phải cứ thở than thương khóc rồi tự vùi dập mình. Còn bây giờ Cô hãy nhìn lên ngọn đồi phía bên kia kìa. Một câu chuyện hiện thực đang xảy ra nơi ấy. Ơû trên đó có hàng trăm đứa trẻ mất cha mất mẹ. Có rất nhiều người phụ nữ đã mất hết con cái và người thân thuộc trong đợt sóng thần vừa rồi. Họ nương tựa về chung một mái nhà để cùng chia sẻ, cùng sống vì mình vì mọi người. Ngôi nhà này do một nữ tu người nước ngoài mới thành lập để nuôi trẻ mồâ côi sau thiên tai. Nhiều chị em đã tình nguyện đến ở đây làm việc và chăm sóc bọn trẻ. Cô tới đó đi để thấy họ tồn tại như thế nào. Những con người chưa từng là thân thích quen biết, vậy mà họ đã thương yêu đùm bọc lẫn nhau để làm lại cuộc đời.

Cô quay qua định cãi lại, thì chợt trông thấy mấy đứa trẻ trong ngôi nhà mở đang đi học về được một người người phụ nữ dẫn lên ngọn đồi. Ngôi nhà đó cô đã từng được nghe nói đến, từng đi qua và nhìn thấy. Nó vẫn là ngôi nhà như bao ngôi nhà khác, chẳng bao giờ cô nghĩ nó thuộc về phần đời của mình cả. Phải! Chưa bao giờ.

...Khi Quế Mỹ trở về thì trời đã nhá nhem tối, vừa bước chân vào nhà thì thằng Mi Sa đã chạy ra ôm lấy chực khóc :_ Mẹ! anh Bo dành đồ chơi rồi còn đánh con nữa kìa.

Mi Sa được nhặt về đây khi còn ẩm ngửa, vừa nhìn thấy nó cô đã yêu ngay, rồi lấy tên đứa con đã mất của mình để gọi cho thằng bé. Suốt ngày nó cứ quấn theo chân cô.

_ Nào! Các con phải ngoan ngoãn lên chứ. Anh chị em sống chung cùng mái nhà phải thương yêu nhường nhịn nhau, đâu có chuyện dành giựt đánh đá nhau như thế. Này các con có nghe Mẹ nói gì không vậy. ?

Bọn trẻ đã lui về phòng học bài hết. Quế Mỹ cũng bước đến chiếc bàn nhỏ dở sổ sách ra coi. Cô mở cánh cửa sổ nhìn thông ra biển. Biển về đêm yên lặng trong tiếng vỗ về của từng ngọn sóng miên man chập chùng lên xuống. Dù biển có làm gì, thì Quế Mỹ vẫn chưa bao giờ thấy lòng mình cách xa với nó. Giông tố rồi cũng qua, để cho mỗi người tự đi theo quy trình bất diệt của sự sống còn. Trên bờ mặt bao la của biển vẫn không ngừng nổi lên nhiều đoá hoa với mầu sắc thật lạ. Những sắc hoa màu biển mang cả tình yêu thương nào đâu biết đến bến bờ phân biệt.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4698)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43810)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4397)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4344)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4259)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6363)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4641)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4060)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25031)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24072)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]