Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nàng và tôi

22/08/201619:16(Xem: 4651)
Nàng và tôi

 

le-khac-thanh-hoaiNàng và tôi
Thân tặng Hoài
Montréal 12-2006

 

Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!

 

Thôi kệ, để tật xấu đó qua một bên.

 

Ngày xưa cha mẹ tôi đông con và giàu.

 

Ngày xưa cha mẹ nàng cũng đông con và giàu.

 

Nhà nàng, nhà tôi là hai nhà đầu tiên có xe Mercedes ở thành phố Huế vào những năm 50.

 

Cha mẹ tôi xuất thân từ nhà nông, ngược lên mấy đời ông bà, tôi không biết tổ tiên làm nghề gì, chỉ biết ông bà nội ngoại tôi là nhà nông. Khi còn nhỏ, ba tôi cực kỳ khổ, học chung một lớp với các nhân tài Tố Hữu, Nguyễn Hy Hiền..., nhưng chỉ được vài năm rồi nghỉ học vì nghèo. Mẹ tôi cũng nghèo lại không được đi học.

 

Cha mẹ nàng con nhà quý tộc, ông bà làm quan, là nghệ sĩ, là dòng họ nhà vua. Cha nàng là bác sĩ giỏi của thành phố.

 

Nhà tôi theo đạo Công giáo, nhà nàng đạo Phật.

 

Các chị của nàng học ở Couvent des Oiseaux-Đà Lạt. Các em của tôi cũng học ở đó. Nàng và tôi học trường Jeanne d’Arc và Đồng Khánh. Các chị của nàng thanh lịch quý phái, mỗi mùa hè về Huế đều đi học đàn dương cầm ở trường Jeanne d’Arc, tôi không quen các chị của nàng, chỉ ngắm họ qua đôi giày hai màu, tôi còn nhớ rõ hai chân hai chiếc giày khác màu, rất phá cách. Dáng đi của các nàng nhún nhảy theo chiếc áo đầm thời Françoise Hardy. Các nàng không nói chuyện với ai hết, học xong lên xe về, có tài xế ngồi chờ sẵn. Chúng tôi mộc mạc trong đôi guốc gỗ, tự ti vì gốc nhà nông của mình, lại được các nữ tu đem lên làm gương mẫu: “Nhìn đây, con nhà giàu nhưng đơn sơ.” Sự thật chúng tôi thèm diện cho oách. Mẹ tôi quá bận rộn với đàn con mỗi năm một đứa, lại nhà quê, lại có đạo, làm sao dám tiêu tiền cho con ăn diện. Đã thế, ba tôi không nương tay với chúng tôi: “Đi học về, phải đi gánh nước, phải chịu cực cho quen!” Ôi nhục quốc thể, chúng tôi không thi hành lệnh này. Đi học đi xe đạp, không đưa đón, chỉ hôm nào mưa to gió lớn hoặc đau bệnh mới được đi xe hơi. Đã thế, với tinh thần tiết kiệm, một công hai chuyện, nếu tiện đường thì phải ngồi lên xe vận tải chở gạo để đến trường - nhà tôi có hai xe vận tải chở gạo – tôi thà đi bộ chứ không leo lên ngồi xe đó, các em tôi an nhiên ngồi.

 

Năm 1963, vì gia đình tôi có liên hệ với gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, cha tôi bị tù, tài sản bị tịch thu, gia đình tôi vào Sàigòn. Chấm dứt một thời vàng son.

 

Năm 1965, vì liên hệ đến biến cố xã hội miền Trung, gia đình nàng vào Sàigòn.

 

Năm 1970 nàng du học ở Bruxelles, các em tôi người đi Suisse, người đi Canada.

 

Cha của nàng là bác sĩ đã cứu sống tôi. Năm lên mười, tôi bị đau thương hàn một trận thập tử nhất sinh, đã thở hắt, tay đã bắt càng cua. Tối hôm đó, trong một bữa tiệc ở Tòa Đại Biểu Trung Phần, ba tôi gặp ba nàng, ba tôi nói có người con đang đau nặng nằm ở bệnh viện Huế, ba nàng bỏ ngang bữa tiệc vào bệnh viện khám cho tôi. Sau đó tôi lành bệnh. Ba mẹ tôi mua một xích lô đầy trái cây hảo hạng đem tặng nhà nàng để tạ ơn.

 

Vào Sàigòn, thỉnh thoảng chúng tôi đi khám bệnh ở phòng mạch ba của nàng. Gương mặt ông trong thời gian đó rất buồn. Tôi chỉ nhớ chừng đó.

 

Quen biết giữa tôi và nàng chỉ bấy nhiêu. Bốn mươi năm sau gặp lại nàng qua trang mạng của nàng, tôi thật ngạc nhiên về nàng, một cô công chúa xinh đẹp, nhỏ nhắn, dễ thương dưới mắt tôi ngày nào, bây giờ là bà mẹ của đàn con năm đứa thành tài đổ đạt, là bà ngoại trẻ, là nghệ sĩ tài danh, là cư sĩ đạt đạo.

 

Đọc tâm tình của nàng, tôi quý nàng biết bao, qua bao nhiêu truân chuyên, nàng một mực biết ơn đời, biết ơn người, biết ơn mọi trạng huống xảy đến, tôi còn biết nói gì hơn trước một tâm hồn cao thượng như thế.

 

Tôi thấy thật ấm lòng khi tưởng tượng căn phòng khách là phòng thiền của nàng, nơi nàng có bàn thờ tổ tiên với hình ảnh ông ngoại hiền lành, bà ngoại rất đẹp, ông cố cốt cách sang trọng, những hình ảnh không bao giờ phai mờ trong tâm trí nàng. Tôi thầm ghen với cảnh con cháu quây quần chung quanh nàng – các cháu của nàng đã lớn – ba mươi tuổi đã có năm con, bốn mươi lăm tuổi đã là bà ngoại, cháu đầu của bà bây giờ đã 16 tuổi, bà sẽ dễ dàng lên chức bà cố.

 

Còn tôi, đã 60 mà cháu mới lên năm, phải mười hai năm nữa cháu tôi mới đặt cho tôi những câu hỏi như cháu của nàng đang đặt cho nàng, và tôi chắc không có dịp được làm bà cố!

 

Những câu hỏi quá dễ thương.

- Bà kể cho con nghe cuộc gặp gỡ và vì sao bà lại có nhiều con thế?

- Thì do mãnh lực khát khao phi thường, tầm thường gì đó...

 

À, thì ra như vậy, Tôi sẽ nói gì với cháu tôi ? Ừ, thì do mình là người đó, bà thì sợ mãnh lực này lắm vì ông cố của con không đầu hàng trước mãnh lực này được nên bà là chị cả của mười bốn người em – đây là biến cố trọng đại có tính cách quyết định tận căn đời bà. Cuộc đời bà chỉ xoay chung quanh biến cố quyết định này... Con cẩn thận đấy nhé!

 

- Bà có nhiều con như vậy, bà khổ là cũng tại bà.

- Đúng như vậy, đừng bao giờ đổ lỗi cho người khác, đừng bao giờ trách cứ ai, phải biết chịu trách nhiệm. Đừng than, đừng trách. Cám ơn tất cả những gì đã xảy đến cho mình.

 

Với tôi thì… Đau quá, đau quá, có trách ông trời được không?

 

- Cuộc đời đẹp ở chỗ nào vậy bà?

- Ở chỗ con biết nhận ra bản chất thật của cuộc đời, nó là bất toàn, hạnh phúc song song với khổ đau, không có gì mà con nắm vững được trong tay, giây phút hạnh phúc rồi cũng qua, khổ đau rồi cũng hết... con không nhớ có lần con khoe với bà, ông thầy dạy pháp văn khen con nức nở khi ông đặt câu hỏi: “Thế nào là Tự Do?” Con đã nói…liều: “Tự Do là trong đau khổ...  mà không khổ !”

 

Ui, tự do tối thượng, có ai được tự do tối thượng này. Lịch sử cổ kim có triết gia Épictète, sinh năm 69 ở La Mã làm nô lệ về mặt thể xác nhưng đầu óc không nô lệ. Gần đây có tổng thống Nam Phi Mandela, ngồi tù 27 năm mà không bị những năm tháng ngồi tù quật ngã. Khỏi nói, tôi nô lệ đủ chuyện, con tôi thành đạt tôi mới hạnh phúc, cháu tôi mạnh khỏe tôi mới vui. Chị em tôi dễ thương tôi mới thương. Tôi khổ vì cha mẹ tôi đông con. Ui, gần như tôi bị xiềng xích khắp cả tâm, thân, ý... Ai cởi xiềng xích cho tôi đây ngoài tôi? Lại nô lệ! Tôi quen sống nô lệ. Nếu bức hết xiềng xích không chừng tôi thành... người điên! Dám lắm. Vì các xiềng xích đã hình thành con người tôi từ bao lâu nay.

 

Các con cháu nàng thương nàng vì nàng gặp nhiều khó khăn trên cuộc đời, nàng sống đạm bạc, nàng sống một mình, âm nhạc nâng tâm hồn nàng lên cao.

 

Nàng có bao nhiêu là yếu tố để được con cháu thương. Còn tôi?

 

Câu hỏi quá gay cấn cho tôi. Chị em tôi nhìn nhau cười, con cháu thương mình cách nào đây? Dù tôi cố hết sức để thương con – theo cách vụng về của tôi, nương chiều là chính – nhưng tôi thấy cũng rất khó để chúng có thể thương tôi.

 

Thương? Thường thường tôi thương ai vì những khó khăn của họ – thất bại trong cuộc đời, bị bệnh nan y, hình như tôi chưa thương được ai khỏe mạnh, thành công. Vui với họ thì có nhưng thương thì phải xét lại. Không dễ dàng gì thương khơi khơi!

 

Một bà ngoại hiền lành, sống đạm bạc, sống một mình, cháu chắt muốn đem tình thương đến cho bà. Một bà ngoại vững mạnh, sống tiện nghi cháu chắt đem tặng bà cái gì đây?

 

Tôi chỉ còn một con đường thôi, tôi phải đi lui để con cháu tôi đi tới. Và tôi bắt đầu sống ẩn dật.

 

Nguyễn Thị Oanh



Kính mời xem bài khác cùng chủ đề

pham-cong-thien-le khac thanh hoai

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/03/2016(Xem: 10330)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10261)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15427)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3432)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2909)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6125)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4615)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 12371)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 14038)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
18/12/2015(Xem: 7184)
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên khác biệt. Chuyến đi Ai Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng có nhân duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương Trượng được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ thời gian ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ ghé Bồ đề Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường Đại học Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ duyên được gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù lại phần lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh viên hoặc ở nhà trọ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]