Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành trang.

10/04/201311:41(Xem: 3868)
Hành trang.

HÀNH TRANG

Diệu Trân

Phàm, ai lên đường cũng mang theo hành trang, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ là do quan niệm về nhu cầu và mục đích chuyến đi.

Khi gã đến bái biệt Thầy, lòng chợt rưng rưng khi chạm vào ánh mắt đầy xót thương. Chẳng lẽ chưa phải là lúc gã lên đường hay sao? Chẳng lẽ Thầy chưa thấy hết những quằn quại thôi thúc trong gã bấy lâu ư?

Tuy thế, giây phút tạm biệt không sầu bi như gã tưởng. Vẫn với giọng nói nhỏ nhẹ, điềm đạm cố hữu, Thầy ôn tồn bảo:

- Chỉ mang theo một chữ, chữ “NHẪN”. Bất cứ nơi đâu, thế nào, cũng chỉ hành xử bằng chữ nhẫn mà thôi. Khi nào cảm thấy cần Thầy thì hãy nhớ rằng Thầy luôn ở bên con.

Gã cung kính lạy Thầy ba lạy.

Gã lên đường với hành trang là chữ “NHẪN” và ánh mắt xót thương của Thầy.

Hai đầu quang gánh không đồng đều nên bước chân gã ngả nghiêng như người say rượu. Thầy trao chữ “Nhẫn” nên gã đặt chữ nhẫn ở quang gánh trước, và ánh mắt xót thương của Thầy ở quang gánh sau. Với gã, chữ nhẫn còn nhẹ tênh mà ánh mắt Thầy thì nặng qúa! Chẳng phải gã đã từng nói:

-Thầy ơi, con biết chắc là con đã từng được đảnh lễ Thầy từ kiếp trước, hay từ vô lượng kiếp trước không chừng.

Thầy đã không cười vì câu nói mùi riệu, sắp xuống sáu câu này, mà chỉ hiền từ bảo:

-Thế ư?

Thực tâm, gã luôn nghĩ về Thầy như vị Thầy-Bổn-Sư, Thầy-Y-Chỉ, vì những gì Thầy nói mà gã đã được nghe, những gì Thầy viết mà gã đã được đọc, những gì Thầy làm mà gã đã được thấy …. Hết thảy đều là kim chỉ nam cho gã. Ấy thế mà, vì những chướng duyên kiếp này, gã chưa từng được Thầy nhận làm đệ tử, dù gã vẫn cảm nhận được là “Thầy luôn ở bên con”

“Thầy luôn ở bên con”.

Điều này không đủ, chưa đủ, đối với gã. Nhất là trong lúc này.

Lặng lẽ ngồi thiền trong bóng đêm, gã đã quán chiếu tên bay, đạn nổ tứ phía và thấy rõ rằng chỉ cần nhận diện những đối tượng là hiển lộ ngay thực chất. Chỉ nhận diện thôi, chưa cần, và sẽ không bao giờ cần suy luận gì, cũng thấy ngay.

Những đối tượng đang hung hãn ném bùn và những đối tượng đang an nhiên trước đất bùn.

Nhận diện thế thôi cũng đủ mang đến cho nhân gian một nụ cười tội nghiệp!

Cũng trong bóng đêm, gã từng nhìn thấy dáng những cây tùng, cây bách thẳng tắp, vút cao, sừng sững nhưng lặng thinh trên triền dốc núi. Hãy mưa đi. Hãy gió đi. Hãy giông bão đi. Rồi mưa nào không dứt. Gió nào không im. Giông bão nào không qua. Còn lại, vẫn là vạn hữu bao la muôn thuở, và con chim én sẽ về, đậu trên ngọn tùng chót vót sương mai để báo hiệu mùa Xuân đang tới.

Gã từng mỉm cười trong đêm khi nhớ tới giai thoại Thiện-Tài đến gặp Tự-Tại-Chủ. Khi đó, Tự-Tại-Chủ còn là một chú bé, đang ngồi vọc cát chơi trên bãi biển, nhưng vì đã được giới thiệu trước nên Thiện-Tài biết đây là một bậc Thánh-giả, rất tinh thông toán pháp vì đã được học toán với Ngài Văn Thù Sư Lợi. Tự-Tại-Chủ nói với Thiện-Tài rằng:

-Bằng phép toán của Bồ Tát, tôi có thể dễ dàng tính đếm được số cát trên các bãi biển, có thể đo lường dài ngắn khắp mười phương thế giới, có thể lượng định lớn nhỏ mọi vật thế gian.

Một bậc Thánh-giả nói lên điều đó với người đi cầu đạo để làm gì? Chắc chắn không phải để khoe sở học, vì phàm những gì không thực có, mới khoe. Vậy, hẳn là Tự-Tại-Chủ muốn đem những hình thái cụ thể để chỉ dạy Thiện Tài những ý niệm về tâm. “Với những tâm nhỏ hẹp thì căn nhà chúng đang ngụ cũng là thế giới mênh mông; trong khi, với những đại-bi-tâm thì cả vũ trụ chẳng lớn hơn hạt cải!”Lớn nhỏ, rộng hẹp, nông sâu, chỉ là những khái niệm tương đối trước Bồ-Đề-Tâm, vì trái tim vô giới hạn đó sẽ an nhiên thâu nhiếp tất cả ân oán, xấu đẹp. Ân để đền trả, oán để giải trừ, xấu để nhiếp độ, đẹp để khuyến tấn …..

Rủi thay, gã chưa được là tiểu đồng theo chân Thiện-Tài đi cầu đạo nên chưa phát nổi Bồ-Đề-Tâm. Gã tự an ủi rằng, Thường-Đề Bồ Tát là vị đã tu tập tinh thông, nhuần nhuyễn Ba-la-mật, nhưng khi chứng kiến những oan khổ thế gian, đôi mắt Ngài đã thường đẫm lệ! Vậy thì, gã có khóc trước tâm địa độc ác của thế nhân cũng chưa phải là điều đáng trách. Có chăng là tự trách đã để bi lụy trở thành oán hận.

Khi nhận ra điều này gã mới thực sự hốt hoảng!

Dù Thầy không có mặt nơi đây, gã vẫn quỳ xuống, sám hối cùng Thầy vì những lời Thầy dạy, gã chẳng thực hành được là bao! Gã không từ-bi và nhẫn nhục đủ, để nối bài học Ba-La-Mật thành chuỗi, như Thầy thường dẫn chứng trong Kim-Cang-Bát-Nhã-Ba-La-Mật Kinh-Luận, là tất cả các Ba-La-Mật đều được hiển thị bằng yếu tính của Bố-thí-ba-la-mật: “Với sự bố thí về tài sản mà Bố-thí-ba-la-mật được thành tựu. Với sự bố thí về vô-úy mà Giới-ba-la-mật và Nhẫn-ba-la-mật được thành tựu. Với sự bố thí về pháp mà Tinh-tấn-ba-la-mật, Định-ba-la-mật và Tuệ-ba-la-mật được thành tựu” (*)

Nếu nghiêm túc thực hành được bài học này, gã đã không để bi lụy trở thành oán hận.

Bây giờ, oán hận đã thành hình, gã không thể chỉ ngồi khóc trước khổ nhục, không thể chỉ ngồi chiêm ngưỡng những thân tùng, thân bách sừng sững thinh lặng trước bão giông. Gã phải lên đường, men theo triền dốc mà đi, dẫu có thịt nát xương tan cũng chỉ là đem hạt cát này hòa vào đại dương để mong có ngày cùng được trôi ra biển lớn. Phải lên tận đỉnh núi kia, ngửa mặt, giang tay, trực diện giông bão đó, thay vì, mãi tự lừa dối mình trong căn nhà không ngừng bị lửa phiền não vây đốt!

Tự lừa dối như thế thì “Phật-thừa không hơn một tiếng nói suông của kẻ mê sảng trong giấc ngủ ngày. Hạt giống Bồ-Đề không được gieo vào một cánh đồng trừu tượng nào xa xôi, cũng không chờ đợi để được gieo vào một vùng đất hứa thần thoại nào khác, mà nó được gieo xuống ngay trên sa mạc sinh tử này, khô cằn với những đau khổ triền miên của chúng sanh này”(*)

Bằng những lời dạy đó, gã đã lên đường, bước vào giữa cuồng phong của tâm địa nhân gian với gánh hành trang, một đầu là chữ “Nhẫn”, đầu kia là ánh mắt xót thương của Thầy. Ánh mắt đó, theo mỗi bước chân, lại chuyển dần xót-thương thành từ-ái.

Cứ thế, trên đường lên núi, hai đầu gánh cân bằng dần, khiến bước chân gã không còn ngả nghiêng, xiêu vẹo…

Tới đỉnh núi, trời đã về chiều. Đặt gánh hành trang xuống, gã kinh ngạc không thấy đâu là chữ “Nhẫn”, đâu là ánh mắt Thầy.

Cả hai đầu gánh chỉ thấy la đà những áng mây bay …

Diệu Trân

(Như-Thị-Am, trung tuần tháng tám 2007)

(*) Thắng- Man Giảng Luận – Thích Tuệ Sỹ

----o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4794)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6797)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4972)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10234)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3718)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4932)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5134)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 8082)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4334)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13653)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]