Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện ‘tiền kiếp’ của cha Việt con Mỹ thời hiện đại

31/05/201605:25(Xem: 21010)
Chuyện ‘tiền kiếp’ của cha Việt con Mỹ thời hiện đại

Chuyện mới xảy ra vào giữa thế kỷ 20 đây thôi, và mãi cho đến ngày nay, cũng còn cả chứng nhân cũng như chứng tích, đủ để đóng một dấu chứng nhận về tính xác thực của nó, dành cho thế hệ bây giờ. 

chuyen-tien-kiep-cua-cha-viet-con-my-thoi-hien-dai-ky-1
Chân dung Tổ Phước Huệ và đệ tử Frank M.Balk (Chơn Trí).




Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.

Ấy thế mà… bỗng dưng một đêm nọ, chàng nằm mơ thấy một người đàn bà mặc áo trắng hiện đến bên giường và cất tiếng bảo rằng: “Người hãy mau đến một đất nước có tên là Việt Nam để tìm gặp lại vị cha tiền kiếp của mình. Hiện ông là một nhà sư đang sống trong một ngôi chùa tọa lạc trên một ngọn đồi gần thành phố. Ngươi khá đi ngay!”.

Chàng kỹ sư Frank M.Balk giật mình tỉnh giấc, tự lấy làm ngạc nhiên về giấc mơ kỳ lạ của mình. Chẳng những trong đầu óc chàng ta chưa từng có một ý niệm gì về cái xứ sở tên gọi là Việt Nam mà ngay đến hình ảnh một nhà sư, một ngôi chùa, cũng vậy. Thoạt đầu, Frank M.Balk nghĩ đây là chuyện mộng mị linh tinh.

Nào ngờ cái “kịch bản” trong cơn mơ nọ cứ lập đi lập lại, khiến chàng trai Mỹ, cuối cùng, phải đành tin là thật. Cơ duyên khế hợp: vào thời điểm này, tại Mỹ, người ta có tổ chức nhiều đoàn chí nguyện đến công tác ở Việt Nam. Sẵn cơ hội tốt, Frank M.Balk liền quyết định đăng ký.

Thế là, chẳng bao lâu, chàng kỹ sư người Mỹ đã được điều tới Việt Nam để… làm một công đôi việc: “một công”, dĩ nhiên đó là công tác xây dựng; còn “đôi việc”, đó là lợi dụng cái tính năng động rày đây mai đó của công tác kỹ sư của mình để “đi rỏn” khắp các ngôi chùa có đặc điểm “tọa lạc trên một ngọn đồi gần thành phố”.

Trong một thời gian ngắn, Frank M.Balk đã “công du” qua nhiều tỉnh: từ Cần Thơ, An Giang, Châu Đốc, Tây Ninh… cho đến Vũng Tàu, Sài Gòn… Và đến bất cứ nơi đâu, sau khi năng nổ hoàn thành công tác, chàng kỹ sư Mỹ cũng tranh thủ để tham quan từng “ngôi chùa đồi”, hy vọng sẽ, cuối cùng, tìm được “người trong mộng”.

Tiếc thay, qua ngần ấy dốc, ấy đồi, bóng chim tăm cá của người cha tiền kiếp vẫn biệt tăm. Cho đến một hôm… Lần này, Frank M.Balk được điều ra tận xứ Nha Trang thuộc miền Trung. Và cũng như với các tỉnh lân cận vừa kể ở trên, tại đây, cũng sau khi năng nổ hoàn thành công tác, Frank M.Balk đã sắp xếp dành cho mình 3 ngày để “đi viếng các ngôi chùa” cũng như “thăm các vị sư”.

Sau 2 ngày lặn lội mà chẳng nên công cán gì; đến ngày cuối, chợt trong tâm linh viên kỹ sư nghe như có một tiếng gì réo gọi. Anh chàng cứ việc thả bộ, đi, đi mãi theo tiếng gọi kỳ bí ấy… Cho đến lúc dừng chân, thì đã thấy mình đứng trước một ngọn đồi rất tráng lệ; và, trước mắt, một cổng tam quan có 3 chữ Nho rất đẹp mà chàng không đọc được, chẳng hiểu là chữ gì.

Tuy nhiên, viên kỹ sư biết chắc đây là một ngôi chùa, và hàng chữ nọ ắt là danh hiệu của ngôi chùa. Chàng bè cất bước đi lên đồi hỏi thăm.

Cũng may tại ngôi chùa này vào thời gian ấy đang có sự hiện diện của nhiều tăng sĩ có trình độ học vấn khá, nói thạo tiếng Anh.

Điều lạ lùng là: ngay khi vừa giáp mặt chàng trai người Mỹ này, các vị tăng sĩ tiếp xúc với chàng đã tỏ vẻ ngạc nhiên. Lúc đó, chàng chưa hiểu là có chuyện gì. Về sau, ngẫm nghĩ lại, chàng mới đoán ra lý do của thái độ ngạc nhiên này.

Gặp được người thành thạo tiếng Anh, viên kỹ sư bèn hỏi thăm tên ngôi chùa, và được biết đây là chùa Hải Đức, một danh lam và là một trung tâm văn hóa Phật giáo của thành phố Nha Trang. Đồng thời, cũng được biết vị sư cả trụ trì ngôi chùa là hòa thượng Thích Phước Huệ. Hòa thương, thời gian ấy, tuổi tác đã bảy mươi, và đang ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật.

Trong lúc vị hòa thượng già người Việt nhất tâm “thành tâm Bát Nhã” trước bàn thờ Phật, thì, đứng bên cửa niệm Phật đường, chàng kỹ sư người Mỹ cũng nhất tâm lặng lẽ quan sát hòa thượng già đang hành lễ trong một phong thái cực kỳ trang nghiêm.

Và, lạ lùng thay, chàng cảm nghe như người trước mặt chính là con người thân thương yêu quý nhất đời mà từ lâu chàng khát khao tìm kiếm. Con người ấy, dáng dấp ấy, gương mặt ấy… Thật nói chẳng hết lời!

Nhưng sự lạ lùng này không chỉ xảy đến trong nội tâm chàng trai Mỹ; các tăng sĩ chung quanh chứng kiến hiện tượng, cũng cảm thấy rất đỗi lạ lùng! Là vì: hai người kia, một tăng một tục, một già một trẻ, một Việt Nam một Hoa Kỳ, sao mà họ giống nhau đến thế!

Mãn thời tụng kinh, sư Phước Huệ đứng dậy. Chú tiểu vội ra dấu cho viên kỹ sư trở xuống hậu liêu chờ. Được các thầy trong chùa thông báo, sư Phước Huệ vội xuống gặp viên kỹ sư. Một cuộc hội ngộ lạ lùng đã diễn ra: viên kỹ sư, qua sự thông dịch của một thầy thạo tiếng Anh, đã trình bày cho Hòa Thượng Phước Huệ biết về giấc mộng kỳ diệu (bây giờ không còn là kỳ lạ nữa, mà đã trở thành kỳ diệu – hiển nhiên là thế) cũng như cuộc hành trình tìm người cha tiền kiếp của mình.

Trong khi nghe câu chuyện của người đối thoại, với gương mặt của người đối thoại như tác khuôn gương mặt của chính mình, hiển nhiên sư Phước Huệ chẳng hề nghe trong tâm gợn lên một thoáng hồ nghi nào: bởi chưng, tất cả, tất cả… đều đồng thanh hòa điệu nói lên rằng đây là sự thực.

Và kết thúc của cuộc gặp mặt này đã diễn ra đúng như điều mong đợi: sư Phước Huệ và chàng kỹ sư Frank M.Balk đã nhận nhau làm cha con; lại, còn hơn thế nữa: thầy trò.


 Cha Việt con Mỹ còn nợ nhau ở ‘tiền kiếp’?

Tổ sư Phước Huệ được kỹ sư ở Mỹ nhận làm cha của “tiền kiếp”. Hai thân phận người ở nửa vòng trái đất phải chăng mắc nợ nhau và gặp nhau để trả nợ ở kiếp “lai sinh”?  

ky 2 cha viet con my con no nhau o tien kiep
Tổ sư Thích Phước Huệ. (xem tiểu sử)



Việc kỳ diệu này đã diễn ra vào ngày chủ nhật 27 tháng 4 năm 1958, lúc 4h30 chiều. Để rồi, hai tuần sau, một buổi lễ quy y cho viên kỹ sư Hoa Kỳ Frank M.Balk đã được tổ chức tại chùa Hải Đức. Sư Phước Huệ ban cho đệ tử mình pháp danh là Chơn Trí. Đồng thời, cũng ban cho đệ tử một chiếc áo tràng màu lam và chiếc quần dài màu nâu sòng.

Sau đó, “hai cha con” đã chụp chung một tấm ảnh kỉ niệm ngày hội ngộ. Tấm ảnh này đã được phóng lớn và treo ở hai ngôi chùa cùng tên là Hải Đức, một ở Nha Trang và một ở Huế. Ngày nay, du khách đến Nha Trang hay Huế, nếu ghé thăm hai ngôi chùa Hải Đức nói trên ắt sẽ thấy tấm ảnh treo ở nhà khách của chùa.

Nhìn tấm ảnh, ai cũng ngạc nhiên thấy sự trùng hợp lạ lùng về hai con người xa lạ. Người góc biển, kẻ chân trời nhưng lại có hai gương mặt, từ mắt, mũi, miệng, tai… cho đến cả khuôn mặt đều giống nhau như tạc.

Lại dưới tấm ảnh còn đề hai hàng chữ một bằng tiếng Pháp, một bằng tiếng Việt, như sau: Le fils perdu et retrouvé. Dimanche, le 27 Avril 1958, 4h30. Và: Đứa con mất đã tìm lại được. Chủ nhật 27-4-1958 – 4h30 chiều.

Trong khoảng thời gian đó, khi còn công tác tại Việt Nam, viên kỹ sư này đã vẽ kiểu và xây dựng một ngôi bảo tháp bên cạnh chùa Hải Đức nói trên. Câu chuyện “người cha tiền kiếp” này loan truyền khắp miền Nam, khiến chính quyền Ngô Đình Diệm – hết sức lo lắng.

Chính quyền họ Ngô đã tìm mọi cách tác động để chính quyền Hoa Kỳ phải triệu hồi kỹ sư Frank M.Balk về nước gấp. Cuộc chia ly thật vô cùng cảm động. Hai cha con nắm chặt tay nhau, rưng rưng nước mặt. Tình đời ý đạo, nói khôn cùng.

Từ đó, Frank M.Balk vẫn thường xuyên liên lạc với sư Phước Huệ.

Vào ngày rằm tháng tư năm 1963, sư Phước Huệ viên tịch. Nhà chùa có đánh điện qua báo tin cho viên kỹ sư, nhưng vào thời gian này, miền Nam đang nổ ra cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật giáo nên việc trở lại Việt Nam để dự đám tang người cha tiền kiếp của viên kỹ sư Mỹ là bất khả. Nhưng dù sao…

Quả là: “nhưng dù sao”… thực. Vì chưng cuộc hội ngộ tương phùng của hai cha con, một Việt một Mỹ, một tăng một tục này dù muốn dù không cũng đã khắc một dấu ấn tuyệt vời lên cõi tâm linh Việt. Những người Việt ta, ai đã có nhân duyên chứng kiến chuyện này hoặc nghe biết chuyện này, thảy đều cảm nhận được một niềm hoan hỉ mang tính thiền duyệt, do thỏa mãn được niềm tin về chánh pháp, về đạo lý luân hồi.

Câu chuyện “người cha tiền kiếp” trên đây quả là đầy đủ ý vị: vừa đạo vị, vừa thi vị. Câu chuyện lại đầy đủ nhân chứng, vật chứng đáng cho người tin cậy. Nay nếu chuyện từ “sự” qua “lý” mà nói, thì ta cũng có thể thấy rằng nội dung câu chuyện còn rất phù hợp với cái gọi là “lý chứng”.

Viết đến đây, tôi lại chợt nhớ đến hai câu đối chữ Nho như sau:

            Mai hương bất cập thi hương viễn,

            Thế vị vô như đạo vị trường.


Có nghĩa là:

Mùi hương của hoa mai không thoảng xa bằng mùi hương của thơ, ý vị của đời không thấm thía bằng ý vị của đạo.

Qua câu chuyện “người cha tiền kiếp” trên, chúng ta, vô hình trung, có thể bắt gặp cái ý thâm túy của hai câu thơ vừa dẫn. Về câu “mai hương bất cập thi hương viễn” thì không cần nói tới ở đây, bởi chưng cái vai tuồng của câu này chỉ để “dẫn đường” thôi: câu hai mới là câu “trọng tài”. Rằng: vị đời khôn sánh bằng vị đạo…

Với trường hợp của câu chuyện “Người cha tiền kiếp”, thì vị đạo nó nằm ở trong mối tình cha con của sư Thích Phước Huệ và chàng Frank M.Balk vậy. Bởi chưng cái mối tình cha con của họ, những người sống lặng về tâm linh, hiển nhiên phải có một cái gì đó sâu đậm hơn các mối tình cha con thông thường khác. Ấy là vì: đạo vị vốn “trường” hơn, sâu lắng đậm đà hơn thế vị - vị đời.

Chính cái tính cách sâu đậm đà này mà trong kiếp lai sinh xảy ra vào thời điểm cuối thế kỷ thứ 19 kể trên, chàng Frank M.Balk mới để hồn phách mình mở ngõ mà lắng nghe được những tiếng gọi siêu thanh của sư Phước Huệ, “người cha tiền kiếp”, nay đang hiện hữu trên đời, cách nửa vòng trái đất; để rồi, theo quy luật “tương ứng tương cầu”, mọi sự đã xảy ra…

Điểm khác lạ là ở đó, mà điểm tương đồng cũng ở đó. Thì cũng vì chữ Ái làm động cơ tạo nên nghiệp lực để đẩy guồng máy luân hồi đó thôi. Có điều là thay vì là si ái, thì đây là từ ái, là hiếu ái, một niềm ái thật trong lành, nó giúp con người tinh tấn…

Trên đây, chúng ta đã đề cập đến một số trường hợp tiêu biểu cho tình trạng luân hồi do chữ Ái. Nay để thay đổi không khí, chúng ta thử chuyển đề tài. Từ chữ Ái, chữ Ân, chúng ta thử chuyển qua chữ Ố, chữ Oán. Qua một câu chuyện lân hồi chuyển kiếp tất nhiên cũng “người thực việc thực”, lại rất, rất đặc thù.

 

Tác giả: Huỳnh Uy Dũng

________

Những ngày vừa qua, sách có tựa đề “Chuyển kiếp luân hồi” do ông Huỳnh Uy Dũng tự tay viết và xuất bản vào tháng 12/2014 đã gây bất ngờ với độc giả.

Sách “Chuyển kiếp luân hồi” do “đại gia” Huỳnh Uy Dũng viết.

 

Cuốn sách “Chuyển kiếp luân hồi” do chính ông Huỳnh Uy Dũng viết đã gây sự ngạc nhiên lớn. Sách dày 272 trang, khổ 14x20, được in tại Xí nghiệp in II, Công ty TNHH MTV Ba Đình. “Chuyển kiếp luân hồi” vừa được phát hành 2.000 cuốn nhưng đã được bạn đọc đón nhận mạnh mẽ.

Nội dung cuốn sách nói về vấn đề kiếp sống của con người được “luân hồi” và đây là một vấn đề dai dẳng nhất trong ý thức (khẳng định hoặc phủ định) của nhân loại.

Trong cuốn sách, ông Huỳnh Uy Dũng hơn một lần nhắc đến, việc khẳng định hay phủ định về chuyển kiếp luân hồi thường được dựa trên hai phương diện: Sự và Lý. Trong vũ trụ pháp giới này đều có cái lý của chúng, chẳng có sự nào vật nào khi không mà có, tình cờ mà có.

Cuốn sách này ra đời cho thấy Huỳnh Uy Dũng không chỉ giỏi kinh doanh mà còn có kiến thức khá uyên thâm về triết học và tôn giáo...

 

Long Đỗ

 
http://petrotimes.vn/chuyen-tien-kiep-cua-cha-viet-con-my-thoi-hien-dai-ky-1-414661.html


***

facebook

youtube

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2016(Xem: 16321)
Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó
05/05/2016(Xem: 5216)
Festival Huế lần 9 đã chiêu đãi khách quý và bà con mình một bữa tiệc văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, âm nhạc, ẩm thực, gồm: Lễ hội chính 13 chương trình; Hoạt động hưởng ứng 28 chương trình; Âm nhạc 27 chương trình; Nghệ thuật truyền thống 9 chương trình; Múa 9 chương trình; Triển lãm, trưng bày, sắp đặt 19 chương trình; Nghệ thuật 14 chương trình. Để thực hiện một Festival hoành tráng, kỳ công, đa dạng, đậm chất Huế như vậy, ai cũng biết là không hề đơn giản. Nó thấm đẫm trí tuệ, mồ hôi, tâm huyết của chủ (Bộ máy nhà nước và bà con Thừa Thiên Huế) và khách (các đoàn quốc tế và du khách).
05/05/2016(Xem: 6602)
Cậu bé vô gia cư thường xuyên gạt tiền cơm của chủ quán, cho đến khi hành vi đó bị con trai bà chủ phát giác ra. Câu chuyện về cậu bé ngày nào, 20 năm sau đó khiến nhiều người xúc động.
29/04/2016(Xem: 4398)
Hai đứa tôi hợp lại thật là đẹp đôi, ai cũng bảo thế. Tôi hăm tám, nàng hăm hai. Tôi cao thước bảy tám, nàng thước sáu, nếu thêm giày dép phụ trợ nàng cũng chẳng thể qua được vành tai tôi. Tôi lưng thẳng, vai rộng, mặt chữ điền, mày rậm, mũi cao, nếu không như Từ Hải cũng là một đấng nam nhi không đến nỗi bị các bà, các cô nhăn mày hỉnh mũi khi phải đối mặt, đối mày. Nàng thanh tao, cân đối với đầy đủ kích thước của một hoa khôi phối hợp với một gương mặt trong sáng như một vầng trăng, vầng trăng có những nét chấm phá tuyệt vời của đôi mày thanh tú không tỉa gọt, đôi mắt to dài sáng long lanh dưới hàng mi cong đen tuyền, chiếc mũi thẳng, và đôi môi, ôi đôi môi xinh đẹp ngọt ngào luôn mọng đỏ như trái chín đầu mùa, y như mấy ông văn sĩ vẫn thường hay diễn tả các giai nhân.
24/04/2016(Xem: 5171)
Đâu là những rủi ro khi kết hôn giả để tìm đường ở lại Úc? Chính phủ có những biện pháp nào để ngăn chặn vấn nạn này? Làm gì khi kết hôn giả nhưng lại bị đối tác xâm phạm tình dục hay bạo hành?
22/04/2016(Xem: 11478)
Jimmy Phạm thừa nhận anh từng cảm thấy xấu hổ với nguồn gốc Việt của mình, và luôn khẳng định mình là người Úc khi ai đó hỏi anh đến từ đâu. Nhưng giờ đây, mặc cảm ấy biến mất, nhường chỗ cho sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp xã hội Koto, nơi đổi thay cuộc đời hơn 1000 trẻ bụi đời Việt Nam.
18/04/2016(Xem: 6228)
Vị bác sĩ với đôi mắt thâm quầng lo lắng theo dõi tín hiệu sinh tồn của người đàn ông trên bàn mổ, đằng xa nữ y tá ngủ gục sau ca phẫu thuật ghép tim kéo dài 23 giờ. Gần 30 năm trôi qua, trái tim người thầy thuốc đã ngừng đập nhưng bệnh nhân được ông cứu sống vẫn còn sống. Không đơn thuần tái hiện nỗi vất vả của đội ngũ y tế, tác phẩm của nhiếp ảnh gia James Stansfield trên hết truyền tải mối liên kết đặc biệt giữa bác sĩ và người bệnh.
08/04/2016(Xem: 4386)
Tính từ đêm nhìn ngắm trời sao Paris qua khung cửa sổ Linh Sơn (*), hơn ba mươi năm đã qua còn nhanh hơn bóng câu qua cửa. Ánh trăng vằng vặc buổi ấy còn soi tỏ đến nay những ý nguyện phần nào được khơi dậy trong chuyến đi xa đầu tiên mà Linh Sơn là bước đầu bỡ ngỡ. Đi là mở rộng thêm được nhiều cánh cửa. Chuyến trở lại Pháp và mấy nước láng giềng lần này mới thật là chuyến rong chơi. Không chương trình và cũng chẳng vướng bận một dự tính nào cần phải hoàn tất.
07/04/2016(Xem: 4648)
Tôi có một ông bác họ, Bác Hương Thạch, thành viên Hội Đồng Hương Chính thời kỳ sau Hiệp Định Geneve năm 1954, tức là một Ủy Viên của Ủy Ban Hành Chánh Xã, lúc đó khoảng gần 60 tuổi mà tôi thì còn con nít mới 9 tuổi. Ông bác này có một chiếc nhà nhỏ bằng gỗ ván thùng cây để nuôi chim bồ-câu. Chiếc nhà gỗ nhỏ đó khoảng 50 cm x 50 cm x 40 cm có hai cửa tròn để chim bồ câu ra vào. Bác sơn chiếc nhà màu xanh da trời rất đẹp rồi đặt lên trên một cây trụ khá cao, có lẽ khoảng 5 đến 6 mét. Bác nuôi một cặp chim bồ câu gồm một trống và một mái.
03/04/2016(Xem: 3745)
Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức Phật A Di Đà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]