Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày xấu

02/10/201509:28(Xem: 2449)
Ngày xấu
phong canh 3NGÀY XẤU 
Hương Đức


 Hôm nay tôi đến nhà người anh họ để dự đám giỗ mẹ của anh ấy (cũng là mợ của tôi), nhìn lên bàn thờ thấy khói hương nghi ngút, thức ăn, trái cây bày cúng ê hề, lòng tôi bỗng nhói lên một niềm cảm xúc.

Thời gian trôi nhanh quá, mới đó đã mười hai năm. Nhớ lúc cha tôi vừa mất, khi chuẩn bị tẩn liệm cho người, mợ ấy đến nhìn mặt cha tôi lần cuối rồi khen rằng cha tôi chết không mất một miếng thịt (cha tôi mất đột ngột do tai biến mạch máu não), mấy tháng sau bắt đầu đến mợ ấy. Thế nhưng căn bệnh ung thư đại tràng đã hành hạ thân xác mợ gần một năm trời khiến mợ như chỉ còn da bọc xương. 
 
Vì tôi là thầy thuốc nên khi nào cần, con trai út của mợ – người trực tiếp nuôi mợ ấy – báo cho tôi biết, tôi sẽ đến tiêm thuốc bổ, truyền dịch trợ sức, cứ như thế kéo hết tháng này qua tháng nọ mãi cho đến trưa ngày 23 tháng 7 âm lịch năm đó thì mợ phát mệt dữ dội. Sợ mẹ mất vào ngày 23 (là một trong những ngày mà dân gian cho là xấu, đến mức “đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn”), thế là các người con của mợ vội vã đến nhà nhờ tôi tiêm thuốc, truyền dịch cho mẹ cốt sao cho bà qua khỏi ngày “xấu” đó.

Tôi thì vốn chẳng tin vào cái chuyện ngày xấu, tốt, tôi chỉ nghĩ ngày nào cũng là ngày của trời đất, như cha tôi thường dạy, nhưng ‘nghĩa tử là nghĩa tận”, lại thân tộc nhờ cậy, thôi thì cứ làm theo yêu cầu của họ, kẻo không lại mang tiếng là thằng ăn ở bạc tình. Khi tôi chuẩn bị dụng cụ, thuốc men xong, vừa định lên xe đi thì người con trai cả của mợ ấy đang định cư ở nước ngoài bỗng gọi điện về, anh ấy nói tự nhiên thấy nóng ruột quá nên gọi về hỏi thăm sức khỏe của mẹ anh, tôi bảo mẹ anh sắp mất, anh ấy khóc òa lên trong điện thoại, tôi nghe mà chảy nước mắt theo. 
 
Thật tội, vì miếng cơm manh áo phải bỏ xứ, rứt ruột ra đi, bây giờ cách nửa vòng trái đất làm sao kịp về với mợ trong phút giây sinh ly tử biệt này. Một lát sau, anh ấy trấn tỉnh lại, dặn tôi cố lo cho mẹ anh trong giờ phút cuối, ơn nghĩa này anh không bao giờ quên, anh còn bảo tôi nhớ ghi lại lời dặn dò, hình ảnh của mẹ anh trước lúc ra đi. Tôi nhận lời giúp anh ấy.

Thế là ngoài túi dụng cụ, thuốc men, tôi còn phải mang cả chiếc camera cũ kỹ và đồng thời cũng không quên mang đĩa VCD “bửu bối” theo. Sau khi tiêm thuốc trợ lực, truyền dịch được gần một giờ, mợ ấy tỉnh táo trở lại, ra dấu nhận biết tôi, mợ thì thào hỏi con tôi mạnh không (tôi có đứa con gái sáu tuổi, hay bệnh, mợ nhớ chuyện bệnh tật của nó nên hỏi thế), tôi trả lời xong liền lấy máy quay phim ra, nói: Mợ có nhắn gì thì nói đi, ngày mai con sẽ gởi phim này qua Mỹ cho anh Hai”. 
 
Mợ ấy trả lời : “Đừng có gởi sớm, đợi quay xong đám ma của mợ rồi gởi luôn cho đỡ tốn tiền”. Tôi nghe mợ nói mà xúc động lạ thường, thương người đàn bà tằn tiện cả đời để lo cho con ăn học, bây giờ đến giây phút cuối của cuộc đời vẫn sợ tốn tiền con cháu. Còn nhớ thời chiến tranh, gia đình mợ tản cư ở nhờ nhà của gia đình tôi, cậu tôi thì đi tập kết ra Bắc, bặt tăm bặt tích, bỏ mặc bầy con cho mợ quán xuyến. 
 
Mợ ấy, lúc đó, lớp mua bán ngoài chợ, lớp nhận may quần áo cho khách, lớp trồng đồ hàng bông bán, bươn chải không nề cực khổ để kiếm tiền lo cho bốn đứa con ăn học tới nơi, tới chốn. Tuy có tiền nhưng không khi nào thấy mợ dám mua bánh trái, thịt thà về ăn, tôi chỉ thấy mợ thường ra mé sông câu vài con cá lòng tong, cá chốt rồi kho qua quít ăn với các loại rau hoang dã hái trong vườn. Tất cả tiền bạc có được mợ đều dành dụm gởi cho con. 
 
Biết tánh hay tiện tặn của mợ, tôi hứa sẽ làm theo lời mợ dặn rồi hỏi mợ có nhắn dạy gì mấy đứa con không để tôi ghi hình. Mợ ấy nhìn tôi với ánh mắt xa xăm rồi nói: “Dạy cả đời rồi”. Sau đó mợ nhắm mắt làm thinh, hai giọt lệ lặng lẽ tuôn ra từ khóe mắt. Tôi bèn lục túi xách, lấy đĩa VCD đã đem theo – đĩa này thâu toàn tiếng niệm Phật A-di-đà của một vị cao tăng – tôi đưa cho các người con của mợ bảo họ mở cho mợ nghe, đĩa mở được môt lúc, tôi thấy nét mặt của mợ thanh thản dần theo tiếng niệm Phật. 
 
Đến khoảng 8 giờ tối, mợ ấy bỗng mở mắt nhìn những người thân xúm xít chung quanh rồi nói: Đã chết hai bàn chân rồi, không còn cảm giác nữa. Lát sau, mợ lại bảo đã chết đến đầu gối và cứ thế, mợ báo cho thân nhân biết cái chết đang chiếm dần cơ thể của mình. Đến khoảng mười giờ đêm, mợ bỗng nhìn tôi, bảo: Chết đến thận rồi, đau quá Đức ơi! Tôi chỉ biết nắm tay mợ động viên, thuốc men gì nữa trong phút giây này, tôi kề tai mợ dặn: Mợ gắng niệm Phật để về với Phật. 
 
Lúc gần 12 giờ, mợ lại bảo chết tới ngực rồi, khó thở lắm. Tôi lại động viên mợ niệm Phật, đôi môi mợ mấp máy theo tiếng niệm liên tục trong đĩa VCD, A-di-đà Phật, A-di-đà Phật. Qua mười hai giờ khuya mợ vẫn còn sống, hơi thở tuy còn nhưng đã mê man không phản ứng gì với những tác động bên ngoài. Đúng một giờ ngày 24/7, dịch truyền hết, tôi bèn hỏi những người con của mợ có muốn tiếp tục điều trị nữa không, họ bảo tôi đã làm đủ theo yêu cầu, không cần gì nữa. 
 
Tôi hiểu mình đã hết nhiệm vụ nên thu dọn dụng cụ, thuốc men, sau đó đến nhìn mặt mợ đang mê man lần cuối rồi cáo từ ra về. Trên đường về, tôi suy nghĩ, thật lạ lùng cho sự bình thản trước cái chết của mợ tôi, suốt mấy chục năm trong ngành y, tiếp xúc rất nhiều với những người hấp hối nhưng chưa bao giờ có người nào có thể bình thản mô tả cái chết đang tới từng phần cơ thể của mình như mợ ấy. Y như một người đóng kịch trên sân khấu, nhưng vở kịch này người diễn viên không bao giờ có thể trở lại với đời thường.

Mợ tôi mất lúc ba giờ sáng ngày 24 tháng 7, sáng đó tôi trở vào dự đám tang và tiếp tục ghi hình buổi tang lễ. Sau tang lễ, tôi gởi phim đã quay cho người con cả của mợ ở nước ngoài, anh ấy xem xong gọi điện về cám ơn tôi, anh ấy khóc rất nhiều, bảo rằng xem một lần cho biết chứ chắc không dám xem lại lần thứ hai, rồi anh lại khóc. Đột nhiên, đang sụt sịt trong điện thoại, anh ấy bỗng hỏi tôi với giọng bực bội: “ .. thằng nào thọc huyết heo ngay lúc tẩn mẹ tao vậy, làm ăn gì kỳ quá, heo la dậy trời trong phim”. 
 
Xứ tôi là vậy đó, trong nhà người chết vừa thẳng cẳng thì ngoài sân đã vật heo, thọc huyết để chuẩn bị đãi đằng. Người đi đám ma dù không muốn ăn vẫn bị lôi kéo ngồi vào bàn “ăn” một chút cho có “cái tình”. Thiệt kỳ cục hết sức, trong kia kẻ khóc than, vật vã, ngoài này người nhồm nhoàm ăn nhậu, chẳng ra làm sao cả…. Không biết đến bao giờ cái tập quán tệ hại đó mới bị dẹp bỏ cho đỡ chướng con mắt.

… Thế là tôi đã giúp họ hàng kéo dài thọ mạng của thân nhân, không phải chết trúng vào ngày “xấu” theo ý của họ. Sau đám tang tôi nhận được nhiều lời cám ơn và quà tặng. Chuyện ngày xấu, tốt thế nào tôi không quan tâm vì không tin vào chuyện đó; nhưng chuyện xảy ra cho thân nhân người chết sau đám tang thì tôi thường chú ý vì trong lời giảng dạy của Đức Phật, Ngài khuyên thân nhân người đã khuất nên tạo công đức lành để hồi hướng cho họ, Ngài còn bảo sự hồi hướng đó, người chết chỉ hưởng được một phần rất nhỏ, còn người sống được hưởng phước gấp nhiều lần từ việc làm của mình. 
 
Chuyện này liên quan đến người con trai út của mợ tôi, vốn là đệ tử lâu năm của thần lưu linh, anh ấy rất khoái làm thịt chó để chế biến món nhậu. Lẽ ra sau khi mẹ mất, anh phải cố gắng tạo phước lành, ăn chay, phóng sinh để hồi hướng cho thân nhân đã khuất như lời vị sư trụ trì hướng dẫn cho những người con khi đến chùa cúng tuần thất cho mợ, thì anh ta lại tích cực giúp hàng xóm hạ “cờ tây”. 
 
Sau khi mợ tôi mất khoảng một tháng, nhân có ông hàng xóm của anh ấy lợp lại mái nhà, ông ta cũng thuộc vào hàng đệ tử có đẳng cấp của thần nhậu, lại cũng là dân “hảo” thịt chó, ông ta tậu được con chó tơ mập mạp để làm thịt đãi mấy người bạn đến phụ lợp nhà. Thế là người con trai út của mợ tôi quên cả việc mình đang trong thời kỳ tang chế, ra tay giúp nhấn nước con chó cho đến chết rồi phụ ra thịt, ướp gia vị, bắc bếp lên nấu một nồi thơm phức. 
 
Lúc chờ thịt chín, anh ta leo lên nóc nhà trước tiên rồi bảo mấy người bạn lên theo, tranh thủ lợp nhanh nhanh để còn xuống nhậu. Không ngờ, chẳng biết do sơ ý hay do mải nghĩ đến nồi thịt chó đang bốc mùi thơm lừng mà anh ta ngồi lên cây đòn tay đã bị ải mục một bên; cây gãy, anh ta rớt từ nóc nhà xuống, xui xẻo lại rớt trúng cạnh bàn nằm bên dưới rồi văng xuống đất bất tỉnh nhân sự. Những người đàn ông có mặt ở đó xúm nhau kẻ giựt tóc mai, người bấm huyệt cho anh tỉnh lại, có người còn xoa bóp dầu nóng ở ngực. 
 
Anh ta đã tỉnh lại sau một hồi được săn sóc bởi mấy tay “nghiệp dư” với hai cái xương sườn bị gãy, mũi nhọn xương gãy do bị xoa bóp đã đâm vào phổi gây lủng phổi, phải đưa đi bệnh viện huyện cấp cứu. Ngày tôi đến thăm, thấy anh ấy ngồi thù lù trên giường bệnh, tay cầm chai đựng máu dẫn lưu từ phổi ra, tôi nói đùa: Bộ ở nhà ôm chai ba xị chưa đã sao lên tới đây còn ráng kiếm chai ôm nữa vậy cha? Anh ta bật cười rồi nhăn mặt vì đau…

Sau mấy tháng điều trị, vết thương, sức khỏe vừa ổn, anh ấy lại tiếp tục nhậu và tiếp tục hạ “cầy tơ”, đến ngày cúng giáp năm của mợ tôi, sau một chầu nhậu thịt chó, anh ta bắc chiếc thang xếp rồi leo lên thay một bóng đèn điện hỏng, không may chốt gài của thang bị tuột, thang ngã, anh ta bị té theo, chân trái bị gãy ở xương cẳng chân, phải chở đi bệnh viên cấp cứu và bó bột.

Thấy anh ta bị tai nạn hoài, mấy người lớn tuổi trong xóm bảo tại anh ta hay giết chó nên bị quả báo. Tôi thì không nói gì nhưng không lấy làm lạ về những việc đó, nhân nào quả đó mà thôi.

Đến cuối năm đó, lúc đang cúng đưa ông táo về trời, tôi lại “được” nhờ đi “kéo” một người sắp chết cho qua khỏi ngày 23. Người sắp chết là cha chồng của cô giúp việc gia đình tôi – cô ấy đã phụ giúp nuôi dưỡng mẹ của chúng tôi bị di chứng tai biến mạch máu não hơn mười hai năm, mẹ chúng tôi tuy đã mất nhưng gia đình chúng tôi và cô ấy vẫn liên lạc thường xuyên, chúng tôi luôn xem cô ấy như con cháu trong nhà – nên việc nhờ cậy này khó có thể từ chối, tôi vội soạn thuốc men, y cụ vào túi rồi đi cùng cô ấy. 
 
Khi đến nơi, các người con của người sắp mất đều đã có mặt, chỉ thiếu anh con trai út (là chồng cô giúp việc) đang trên đường từ thành phố về. Tôi kiểm tra thì mạch của người sắp chết hầu như không bắt được, huyết áp không đo được, tim đập nhanh, nhỏ, thở lấy hơi lên, phổi ứ đầy dịch, với tình huống này chỉ trong vòng hai giờ nữa là ông ấy sẽ ra đi. 
 
Lúc đó, người con trai út vừa về tới, một mặt tôi bảo cô giúp việc ngồi kế bên cha chồng niệm Phật và nhắc cha chồng niệm Phật theo, một mặt tôi nói với các người con và vợ của ông ấy về tình hình sắp ra đi của ông, khuyên họ bàn bạc thống nhất về việc có nên tiêm thuốc kéo dài thêm sự sống không, và tôi cũng nói lên quan điểm của mình về ngày xấu hay tốt. 
 
Sau một hồi hội ý, người con trai cả đến bảo với tôi, họ đã thống nhất không tiêm thuốc “hồi sinh”, trời bảo đi hồi nào thì đi hồi ấy. Nhận được quyết định đó, tôi rất vui mừng dù rằng mình bị “thất nghiệp”. Và ông ấy mất vào 11 giờ 30 ngày 23 tháng Chạp năm đó.

Qua giao tiếp lâu năm, tôi biết gia đình bên chồng của cô giúp việc là gia đình có truyền thống thờ Phật lâu đời, tôi hay gặp cha chồng cô ấy đi chùa, vị trụ trì ngôi chùa lớn trong xã rất quý trọng ông ấy, lệ thường, sau khi ông ấy đến chùa đó lễ Phật, do nhà xa, tuổi lại cao, thầy trụ trì hay trực tiếp chở hoặc cho người đưa ông ấy về nhà sau lễ cúng. 
 
Lúc còn khỏe, ông ấy có chân trong hội chữ thập đỏ của ấp, nhà nào có tang ma ông thường đến gúp đỡ rất nhiệt tình, hễ có thân nhân vừa mất là người ta nghĩ ngay đến ông ấy. Con cái ông ấy theo gương cha nên ăn ở hiền lành, hay giúp đở hàng xóm..

Ngày tang lễ của ông ấy, những người con đã tổ chức một lễ tang chưa từng có tiền lệ ở xã nhà là cúng kiếng, chiêu đãi toàn bằng thức ăn chay. Việc làm đó tạo hai phản ứng trái chiều, những người thích ăn nhậu thì chê đãi ăn gì toàn tàu hủ với rau củ, họ nói mỉa mai, đãi như thế, xong đám chắc lời to, còn những người lớn tuổi, Phật tử thì hết lời khen những người con biết tạo phước lành cho cha…

Sau đám tang, những người con của ông ấy thường đi chùa cúng dường, cầu nguyện, lại hay tổ chức lễ phóng sanh, họ dùng tiền phúng điếu xây được một cây cầu bê-tông nhỏ bắc qua kênh trong xóm… Tất cả những việc làm đó họ đều hồi hướng cho cha mình khi cúng nguyện trong các tuần thất ở chùa.

Nhân nào thì quả đó, nửa năm sau, đứa cháu nội đích tôn của ông ấy trúng tuyển vào đại học, cả họ hàng đều mừng, đó là người đầu tiên của dòng họ đậu đại học, bởi họ xuất thân từ tầng lớp nông dân, chuyện khoa cử luôn xa tầm tay với ông bà, cha mẹ. 
 
Ngoài ra, người con trai út của ông ấy sau bao năm xa nhà, làm thuê trên thành phố, đã tìm được việc làm tại địa phương với mức thu nhập tương đương trên thành phố, làm việc gần nhà, anh có điều kiện săn sóc mẹ già, lo cho gia đình, vợ anh ta thì khỏi phải nói, vui mừng khoe với chúng tôi với nụ cười rạng rỡ trên môi… Và còn nhiều việc may mắn khác nối tiếp đến với những người con khác của ông ấy.

Đôi lúc, chợt nghe ai đó nhắc tới những ngày mùng 5, 14, 23, tôi lại nhớ đến hai câu chuyện trên, một dòng họ được tôi dùng thuốc men giúp cho thân nhân không mất vào ngày “xấu”, nhưng với lối sống theo dục lạc thế gian, không biết tạo phước, hay sát sanh nên tai họa đến hoài, còn một dòng họ chấp nhận người thân ra đi theo lẽ tự nhiên của trời đất, mất đúng vào ngày dân gian cho là xấu nhưng họ biết sống theo lời Phât dạy, gieo phước lành, phóng sanh nên phước liên tục đến. 
 
Ngẫm lại, họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có, gieo nhân lành thì có quả ngọt, nhân xấu thì quả đắng, không thể khác được. Chỉ có vấn đề là nó đến nhanh hay chậm mà thôi.  
 
(Văn Hóa Phật Giáo 185)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 51177)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
02/09/2010(Xem: 5602)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 2538)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2558)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2440)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4414)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 53098)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3525)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 52044)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567