Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12. Ngủ

18/07/201509:46(Xem: 2603)
Chương 12. Ngủ
TỰ TRUYỆN MỘT NGƯỜI TU 
Thích Hạnh Nguyện 

Nhà xuất bản Hồng Đức 2015
CHƯƠNG 12
NGỦ

Hãy thưởng thức trạng thái ngủ mà thức, khi mọi căn của thân và tâm nằm trong trạng thái tĩnh lặng và dứt trừ các hoạt động trí năng. Trạng thái ngủ mà thức là một thức biết siêu việt. Nơi đó có sự sáng suốt toàn hảo, khi tâm của chính họ đã nhập vào trong đại thể. Sẽ không có sự tỉnh dậy từ giấc ngủ này. Sivananda.

Hồi còn làm chú tiểu tu học ở chùa tôi đã khổ không ít vì cái chuyện ngủ này, vì ngủ đối với tôi thường là một đam mê quái đản; tôi không bao giờ biết mệt mỏi khi ngủ nhiều, dậy trễ.  Khi chưa đi tu thì tôi có quyền nằm thẳng cẳng đến mấy giờ dậy cũng được, thường thì 8, 9 giờ sáng mới dậy, và cái dậy sau một giấc ngủ dài thẳng cẳng thì quả thật là thoải mái và thảnh thơi. Nhưng đến khi vào chùa tu rồi tôi không được phép làm những gì tôi muốn, mà chỉ làm theo những gì thầy tôi muốn, dù rằng việc ấy có khó chịu và khó khăn đến đâu. Con người hư hỏng của tôi bắt đầu được gọt đẽo lại kể từ thời gian ấy, cái giá của nó cũng thật chẳng giản đơn chút nào.

Hồi đó và mãi cho đến bây giờ tôi vẫn có cái ý nghĩ rằng, cái sướng nhất của người thế gian là được ngủ theo số thời gian mà họ muốn. Họ cũng có thể đi ngủ thật trễ một hai giờ khuya hay sớm khoảng tám chín giờ, để rồi khi thức dậy có thể là bảy tám giờ hoặc mười một, mười hai giờ trưa mà chẳng phiền hà ai, và cũng chẳng sợ ai la rầy. Cuộc đời con người của chúng ta thì giấc ngủ đã chiếm một phần ba kiếp sống này rồi, thế thì nếu người ta không tránh khỏi cái khổ trong đời sống vật lộn bon chen hàng ngày, thì người ta phải có quyền hưởng cái sướng và đẹp trong giấc ngủ chứ? Không hưởng được khi ngủ lẫn khi thức thì thế gian này còn lại gì?

Có những lúc tôi phải tự bào chữa với mình bằng những lý lẽ như vậy, để ráng nằm thêm chút nữa cho đã cái xác thân; nhưng những lời răn lời dạy của thầy tôi còn làm tôi đau nhức hơn, nên lâu lâu mới dám mạo hiểm một lần chứ không đến nỗi thường xuyên. Khi có những công việc đột xuất hoặc gặp thầy bạn huynh đệ nào ở xa mới đến, thì tôi phải thức khuya hơn để làm việc hoặc để chuyện trò, thế nhưng buổi sáng hôm sau cũng phải thức dậy đúng giờ. Tôi và thầy Hạnh Tấn hai người đồng thức dậy cùng thời gian là 5 giờ 15, sau khi rửa mặt xong phải lên chánh điện trước để thắp nhang đốt đèn trước bàn Phật. Đúng sáu giờ kém, thầy tối mới ra và mọi người bắt đầu tụng thời kinh công phu kinh Lăng Nghiêm. Ở nước ngoài hầu hết các chùa nếu có tụng kinh thì tụng vào giờ này hoặc trễ hơn nữa, để tránh tiếng ồn vang vọng giữa đêm khuya, có thể làm phiền người hàng xóm. Họ mà cảm thấy chút phiền hà đem nói với chính quyển thì sẽ có giấy mời hầu toà đến ngay, thế nên chuyện dọn chùa ở hải ngoại là điều thường thấy là do như vậy. Chùa tôi đặc biệt có thầy tôi lại là người siêng tụng kinh Lăng Nghiêm nhất, nên dẫu có lười và buồn ngủ đến đâu tôi cũng khó trốn né việc này; vì trốn né vắng mặt là thầy biết ngay và sau thời kinh là sẽ có trát đến tận phòng để mời vô nói chuyện.

"Hôm nay vì sao chú không đi tụng kinh?" Thầy tôi hỏi. "Dạ bạch thầy, con nhức đầu.". "Nhức đầu gì mà ngày nào cũng nhức đầu vậy?".

"Dạ, con không biết nữa, mấy hôm nay con cảm thấy mệt quá nên không đi được dù con cố gắng lắm." Tôi đáp một cách khéo léo nhưng chắc không qua mắt được thầy tôi, nên thầy răn đe.

"Chú mà không lên tụng kinh thì không được đâu nghe. Tu học mà biếng lười thì không nên tu vì như vậy thì sẽ bị đoạ chết. Ăn cơm, hưởng sự cúng dường của đàn na thí chủ mà không ráng lo tu thì kiếp sau mang lông đội sừng để trả nợ".

Với những lời cảnh cáo và nói gay gắt của thầy, kể từ đó tôi sợ và hết dám trốn tránh, vì có biết trốn tránh cũng không xong. Ở gần mặt trời mà làm vậy có ích gì, chẳng thà ở riêng một mình và xa xôi tận một nơi nào đó.
 
Những hôm sau thức dậy, đôi mắt mỏi mệt và cay xè, bước đi loạng choạng hướng về công tắc đèn để mở mà tôi tưởng chừng như mình ngã quỵ xuống và ngủ tiếp được, nhưng nghĩ đến ông thầy nghiêm quá nên đành thôi. Vậy ra có được một vị thầy nghiêm ít nhất cũng làm cho mình sợ, để bớt dễ duôi và lười biết với chính mình. Còn không sợ thầy hay gặp một vị thầy quá dễ dãi thì có thể mình sẽ cảm được một sự thoải mái nào đó trong đời sống tu hành; nhưng nếu không khéo sống trong sự ý thức và tự chủ với chính mình thì khi về già, ta có thể trở thành một vị tăng dốt, kiêu ngạo, lười biếng và hay tìm cách che mắt người. Có lẽ những điều này đã xảy ra rồi, nên ngay cả thời xưa, chư tổ cũng đã có răn dạy về điều này. Tổ Quy Sơn có dạy:

"Tu hành giải đãi biếng lười nên đến lúc tuổi già, lạp hạ thì lớn nhưng bụng thì trống rỗng. Do vì chưa từng thân cận bậc thiện hữu tri thức để học hỏi nên giáo pháp không biết, luật nghi cũng chẳng thông, thế nên chỉ biết xấc láo và ngạo ngược. Nói năng thì vô phép, lời to tiếng lớn, không kính kẻ trên người dưới. Khi ăn thì khua bát, khua chén và dậy trước, ăn rồi thì tụ họp ngồi nói chuyện tào lao như những người Bà la môn không khác, nên dầu đã bạc đầu mà chẳng có lợi gì cho người. Kẻ hậu học đến thưa hỏi thỉnh vấn Phật pháp thì không biết trả lời, hoặc nếu có trả lời thì đáp bậy không liên hệ gì đến kinh điển. Hậu sinh có chê thì thân tâm nổi giận, lớn tiếng át người nói, bảo họ vô lễ".

Thầy tôi đối với chuyện ngủ nghĩ không bao giờ đánh đòn đệ tử mà chỉ la rầy, nói những lời nghiêm khắc và cảnh cáo; còn đánh đòn thì chỉ đánh những chuyện khác. Đó là chuyện tụng kinh, đánh chuông đánh mõ sai điệu. Đánh chuông mõ sai điệu mà nhất là lúc thầy đang tụng thì thật là phiền hà, vì lúc ấy buổi lễ trông loạn hẳn lên. Những lúc ấy thì phải coi chừng thầy "phóng phi tiêu". Tôi và mấy chú khác trong chùa thường hay bàn nhau về chuyện này vì đã được chứng kiến thầy phóng vài lần. Số là trong chùa có chú Thiện Phước, một chú xuất gia trước tôi độ hơn một năm nhưng rất tối học và hơi kém lanh lẹ. Thầy dạy mãi mà chú học không vô, thầy la hoài mà chú chứng nào cũng tật nấy; cứ hay lãng vãng dưới bếp phụ giúp việc chung với mấy cô mấy bà. Học hành kinh điển thì học hoài không thuộc, thầy la rầy thì giương mặt nhe răng mà cười trừ. Tính chú ấy hiền hậu và dễ thương như vậy, nhưng khổ nỗi dốt quá thành ra la mãi thầy bỗng thấy bực mình, nên dần dà cũng chẳng ưa chú. Có lần trên chánh điện đang tụng kinh, chú đánh mõ sai nhịp sao đó, nên thầy đang ngồi tụng phía trên, bèn lấy cái dùi chuông đánh nhịp đều canh lại để nhắc chú đánh cho đúng nhịp. Thế mà chú vẫn tỉnh bơ, mạnh thầy thầy đánh, mạnh chú chú đánh và đường chú, chú cứ đi mà lòng chẳng nao núng. Quá bực, thầy phóng luôn cái dùi chuông vào người chú; dù có khờ khạo đến đâu nhưng lúc ấy tôi vẫn thấy chú né người một cách tài tình trong đường tơ kẻ tóc.
"Chú đánh mõ gì lạ vậy!" thầy tôi la lên và tiếp tục tụng kinh như thường lệ.

Quá hoảng chú Thiện Phước lùi lại ra sau, thấy tình cảnh tội nghiệp của chú, chú Thiện Tín nhào người lên trước đỡ lấy chuông mõ và tiếp tục đánh theo cuộc lễ. Chú Thiện Tín là một người lanh lẹ, học giỏi và khéo ứng xử trong mọi trường hợp nên chẳng bao giờ bị phóng phi tiêu, còn chú Thiện Phước thì ít nhất ba lần đã bị phóng ngay trên chính điện. Đánh mõ cho các bài kinh thông thường thì chẳng khó mấy, nhưng đánh cho bài kinh Lăng Nghiêm mà thầy tụng mỗi buổi sáng thì là cả một vấn đề. Thầy tụng rất nhanh, những đoạn sau gần như là thầy tụng nuốt hết tất cả chữ, thế thì biết đâu mà mò để đánh theo nhịp. Trúng nhịp thì thầy cũng chẳng thưởng cho gì, sai nhịp thì bị thầy để ý và răn đe phóng phi tiêu có phải là khổ không! Thế nên biết mình cũng thuộc loại chậm chạp, đánh mõ dở và hay sai, nên nếu đánh chắc thế nào cũng bị thầy ra tay; tôi đành thủ về phía đánh chuông cho chắc, vì đánh chuông rất dễ và chỉ đánh đủ số tiếng là được.

Chú Thiện Phước sau một thời gian ở chùa đã ra đi, không biết là tại vì thầy tôi khó và không thương chú mà chú bỏ chùa để về chốn cũ là nước Phần Lan, hay là tại vì tâm trí yếu ớt, khả năng tu học kém nên phải đầu hàng trước những khó khăn và thử thách của chốn thiền môn. Tuy nhiên khi về nước chú cũng ráng giữ y áo tu tập một mình đâu trong khoảng hai năm trường, nhưng rồi sau đó cũng hoàn tục. Tôi không biết là sau khi ra đời chú có còn thương chùa, tưởng nhớ đến thầy hay không? nơi mà chú đã ở, được sự dạy dỗ của thầy và được bao người trong chùa mến thương vì tính tình khả ái của chú; hay chú lại phiền hà trách móc thầy điều nọ, điều kia. Cái tâm lý thông thường của một người thua cuộc thường là hay thấy lỗi tại nơi nào đó, tại vì người này, người kia hoặc do hoàn cảnh mà thân tôi phải ra như thế này. Họ có biết đâu tất cả đều do tâm họ sai khiến với bao lý lẽ để, cuối cùng xúi dục họ ra đời. Người có can đảm chính là người dám thừa nhận sự thất bại này đây là do mình, nơi mình mà ra, chẳng có ai khác có thể làm mình thất bại ngoại trừ chính mình. Nếu con người ta đến với đạo Phật qua vị thầy thì cũng sẽ qua vị thầy họ bỏ đạo Phật, nhưng nếu đến với đạo Phật qua giáo lý của Ngài bằng sự hiểu biết của trí tuệ, thì họ sẽ không bao giờ rời bỏ đạo Phật.

Ở Việt Nam các chùa thường thức dậy rất sớm khoảng ba giờ hoặc ba giờ rưỡi để tụng kinh và ngồi thiền, và khi ngủ thì vào lúc 10 giờ. Do đó nên cái nhọc và mệt của những tu sĩ ở Việt Nam có phần hơn. Thầy tôi và ngay cả một số mấy thầy bạn đồng tuổi ở Việt Nam có kể lại nhiều chuyện vui về việc ngủ nghĩ và tụng kinh khuya này. Buổi khuya thức dậy, có chú lên tụng kinh mà cũng còn mắt nhắm mắt mở, nên sau khi tụng một hồi rồi thì mất bắt đầu nhắm lại luôn, cho đến khi một cái dùi chuông hay một cái dùi mõ nào đó đập vào đầu, chú mới sực tỉnh và dông tuốt ra ngoài. Có chú đang đứng đánh mõ tự nhiên vậy mà lại ngủ tỉnh bơ, khi đến hồi dứt mõ mà chú cũng đánh đều nhịp, người ta mới biết là chú đang ngủ và chỉ đánh theo thói quen. Vậy là cũng bị ăn những trận đòn tá hỏa tam tinh. Có chú buồn ngủ quá tìm cách chui vào cầu tiêu vào tủ để lén ngủ, thật là tội nghiệp nhưng đành phải vậy chứ biết sao vì giới luật tu hành buộc phải vậy, truyền thống chùa chiền là vậy, đâu còn cách nào khác hơn. Đức Phật dạy rằng:

"Người xuất gia thì lấy ba việc ăn, ngủ và nghỉ làm giới hạn, không cho nó đầy đủ như người thường. Vì ba điều ấy mà buông lúc phóng túng thì biết mấy cho vừa, lại thêm thời gian thoáng đó mà trôi chảy không ngừng nên không khéo tu, không khéo hành trì thì chỉ uổng kiếp sống một đời người, mà chẳng mang ích lợi gì cho mình và cho người".

Cái ngủ giờ đây đối với tôi sau nhiều năm luyện tập đã có phần nào giảm bớt, đã thuần phục dưới sự điều khiển của lý trí. Nó không còn là một căn bệnh quái đản như ngày nào, dù rằng giờ đây tôi ngủ rất ít, chỉ độ khoảng 5 tiếng mỗi đêm mà thôi, nhưng tôi vẫn cảm thấy khoẻ khoắn như thường. Thầy Hạnh Tấn thì càng đặc biệt hơn nữa vì thầy ấy mỗi ngày đều có thể ngủ 3 hoặc 4 tiếng là tối đa, ngủ nhiều hơn là thầy ấy cảm thấy đau dần trong người, cảm thấy lừ đừ và chẳng thể làm gì được, có lần thầy ấy nói với tôi như vậy. Ở chung với thầy ấy, thấy thầy ăn và ngủ mà tôi cũng phát sợ vì theo không kịp. Ăn thì thẩy có thể ăn quanh năm suốt tháng với độc một món, còn ngủ thì ngủ lúc 1 hay 2 giờ và thức dậy lúc 4 giờ. Ăn và ngủ như vậy, thì dù tôi có là thánh đi nữa chắc cũng chẳng theo nổi.

Sau thời gian sống ở chùa với thầy dù không được nhiều năm lắm, nhưng quen nếp sống ăn, ngủ và làm việc điều hòa của thầy nên nay tôi đã rất ảnh hường với thời khóa đều đặn hàng ngày. Thật ra cái ngủ tuy khó kìm chế nhưng lại là dễ, vì nó chỉ là một thói quen tự nhiên theo bản năng mà thôi. Nếu ta để cho thân này ngủ ngày tám tiếng mỗi ngày, thì khi làm khác đi do thời gian, hoàn cảnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy mệt mỏi khó chịu vô cùng trong một thời gian nào đó; nhưng sống với thời gian của sự ngủ nghỉ mới một lúc ta sẽ quen, và chẳng thấy khó chịu nữa. Như người ngủ ít thì cũng vậy, và khi bị điều kiện hoàn cảnh nào đó để phải ngủ nhiều, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi hơn, thay vì thoải mái hơn như thường tình.

Sau một thời gian sống trong sự ngủ nghỉ điều độ, thì dù chẳng có sự khắc chế, cái thói quen đi ngủ và thức dậy đúng giờ ấy cũng trở thành một bản năng ngủ và thức tự nhiên theo giờ giấc định sẵn. Kinh nghiệm cho tôi thấy là cứ đến giờ tụng công phu khuya là tôi tự nhiên thức giấc, hai mắt mở trao tráo và chẳng thể ngủ được nữa, đó là một điều mà gần như người tu nào cũng có qua thời gian tập luyện.

Trong những cái dục ái đam mê của cuộc đời thì trong đó cũng có cái dục ngủ, nên xem chừng như cái ham muốn và mê say của việc ngủ cũng không phải là xem thường cho lắm. Người tu thì do vì có lý tưởng và mục tiêu sống của họ, nên buộc phải kìm hãm bất cứ gì có thể kìm hãm được, để cho đời sống tu hành được thánh hóa hơn. Nhưng với người thế gian thì không có mục tiêu rõ rệt trong cuộc đời, nên con người ta thường chỉ tìm cách sống sao cho thoải mái thân này là được. Thân này càng thoải mái, càng sướng thì người ta càng cho rằng cuộc đời họ sẽ có hạnh phúc hơn. Do đó mà bao nhiêu tiện nghi vật chất được tạo ra cũng là để cho thân này, mà vật chất để cung ứng cho cái ngủ cũng đa dạng không kém. Trong những xã hội phương Tây, người ta bày biện ra biết bao nhiêu loại giường, kiểu nọ kiểu kia với đủ thứ thời trang đẹp mắt. Nào giường nước, giường sưởi, giường điện, giường bông, giường lò xo kéo lên kéo xuống và thôi thì đủ thứ. Nhưng bên cạnh, người ta cũng chế ra nhiều loại thuốc ngủ khác nhau để giúp cho cái ngủ nữa. Không biết có phải cái tình trạng mất ngủ của những người sống trong xã hội phương Tây kia, có phải là do có quá nhiều giường thời trang và tiện nghi kia không? Cũng có thể lắm chứ, vì một phần cái tiện nghi quá sức kia cũng chính là đầu mối đưa người ta đến mất ngủ. Thế nên cứ không phải ở cao sang với vật chất tứ bề là người ta có thể cố được một giấc ngủ ngon lành. Cứ không phải những kẻ đầu đường xó chợ lại phải ngủ trằn trọc đêm thâu. Cả hai trường hợp chúng ta đều có thể ngủ ngon và không ngủ ngon nếu biết, và không biết cách.

Thật ra con người chúng ta vì phải mang thân xác phàm này, nên việc ngủ phải là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên nó không phải là điều quyết định cái sướng, cái khổ của con người. Theo Phật giáo thì những người ngủ nhiều tâm trí sẽ bị ám muội, dật dờ và thiếu sự sáng suốt; còn nếu ngủ ít quá mà chưa có khả năng tự chế thì cũng có thể sinh ra phiền não. Trong hai điều đó cần phải có một sự dung hòa để thích hợp với tự thân. Với đức Phật một người đã hoàn toàn giác ngộ thì giấc ngủ thường tình đã không còn ảnh hưởng thân Ngài. Giấc ngủ của Ngài là sự nhập định. Trong kinh tả rằng vào buổi tối từ khoảng thời gian 10 giờ khuya đến 2 giờ khuya, là giờ đức Phật giảng pháp và hóa độ cho chư thiên. Từ hai giờ đến ba giờ Ngài đi kinh hành, từ ba giờ Ngài nằm định thần nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn giờ đến năm giờ, Ngài nhập Đại bi định rải tâm từ bi đến mọi loài chung sinh, sau đó dùng Phật nhãn của Ngài để quán sát người có nhân duyên được độ. Đó là một giấc ngủ của bậc trí tuệ. Có lẽ chỉ có Ngài, bậc đại tuệ và là người đã diệt hết mọi lậu hoặc nên mới có thể sống một đời với các hạnh lợi tha nhiều và có sự ngủ khiêm tốn như vậy. Ngoài ra, ngay cả bậc đệ tử lớn của ngài là đức Mục Kiền Liên cũng không kiểm soát và chế ngự được cơn ngủ trong sự tu tập của Ngài. Trong kinh trưởng lão thượng tôn thùy miên, thuộc Trung A Hàm, đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên về phương cách chống lại cơn buồn ngủ như sau:

"Này Đại Mục Kiền Liên, nếu chứng buồn ngủ của thầy không bị diệt trừ thì hãy theo giáo pháp đã được nghe, tùy theo đó mà thọ trì, tâm suy niệm, tâm suy tư. Lại nữa, thầy có thể dùng hai tay xoa lên hai mép tai, hay lấy nước lạnh rửa mặt và dội ước thân thể, hay đi ra ngoài thất xem khắp bốn phương, nhìn các vì sao. Như vậy thì chứng buồn ngủ mới có thể được diệt trừ".

Ngài Mục Kiền Liên, một bậc thánh còn bị chứng buồn ngủ ngăn che và làm cho sinh ưu phiền, thì chúng ta hàng phàm phu tất sao tránh khỏi, nên ngủ hoài mà vẫn chưa thấy đủ, thấy đã là vậy. Và có lẽ vậy nên chúng ta mãi mãi còn là chúng sinh.

Xuất gia tu hành là cần phải hiểu cái lẽ vô thường hơn ai hết, nên việc ngủ nghỉ cần phải khắc chế. Đức Phật trong kinh Di giáo, Ngài cũng nói nhưng lời ân cần sau cùng khuyên bảo các thầy Tỳ kheo là chớ nên ngủ nghỉ nhiều, mà hãy lo gắng sức tu hành sớm hôm để cầu giải thoát. Ngài nói:

"Các thầy Tỳ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt qua, đầu đêm và cuối đêm cũng đừng để phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tiêu trừ nghiệp chướng. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để một đời trôi đi, chẳng được chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, hãy sớm cầu tự độ mà đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình rập để giết ta, dữ hơn kẻ thù thì tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong ta ví như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn độc ra rồi mới yên tâm mà ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết sợ và hổ thẹn."

Nếu người ta thật tâm với đạo, với sự giải thoát cho chính mình và vì hạnh lợi tha cho người thì họ cũng không thấy có thời gian để ngủ nghỉ nữa. Thời gian trông dường như dài đằng đẵng của một ngày ấy thoáng qua là hết với bao nhiêu là công việc của sự tu hành, xem kinh sách, dịch thuật, giảng dạy và đi hoằng hóa nơi này nơi kia. Các bậc thầy đức độ của chúng ta đã là những tấm gương trước mắt. Tiêu biểu là thầy tôi đó! vì suốt cả một đời người đã không có sự phóng túng tìm cái an nhàn và ngủ nghỉ cho mình, mà chỉ lo cho Phật pháp, cho người với bao nhiêu là công hạnh lợi tha. Khi mà các bậc thầy ấy cảm nhận được ân đức của chư Phật, trách nhiệm mà quý ngài đang gánh trên vai, thì làm sao có dư thời gian rỗi rảnh để yên lòng lo chuyện ngủ nghỉ. Chính những tấm gương và đức hạnh sống gần gũi bên mình của quý thầy, chính những lời dạy tha thiết của đức Phật về việc ngủ nghỉ như thế, mà tôi mãi mãi có đủ thêm năng lực để tự khắc chế mình, hầu có thể mạnh dạn bước vững trên con đường giải thoát giác ngộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4678)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4829)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10077)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3618)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4816)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5048)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7504)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4216)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13442)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]