Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình Trong Đóa Hoa (truyện)

24/05/201519:58(Xem: 5075)
Tình Trong Đóa Hoa (truyện)

 Tinh Trong Doa Hoa





Tình Trong Đóa Hoa, là tác phẩm được diễn lại hình ảnh của tiền thân Đức Thích Ca Mâu Ni trong vô lượng A –tăng-kỳ kiếp, tên Tất Đạt, con trai duy nhất trong gia đình tin Phật, hết lòng tôn kính Tam Bảo, phụng Phật. Vì vậy mà sau khi biết được Đức Phật Nhiên Đăng về thuyết pháp tại bản huyện, cách nhà cả chục cây số, chàng Tất Đạt liền xin phép mẹ đến nghe Đức Phật NHIÊN ĐĂNG thuyết pháp. Trên đường đi, Tất Đạt ghé vào những nơi bán hoa sen bên vệ đường, để mua hoa cúng dường lên Phật Nhiên Đăng.

  Tất Đạt chỉ thích mua hoa sen trắng thôi, cho nên qua 4 giang hàng hoa, toàn là hoa sen hồng. Đến giang hàng thứ 5, có hoa sen trắng, chàng cảm thấy vui mừng trong lòng, chàng liền hỏi cô bán hoa bao nhiêu một bó ?  Cô chủ hàng nói một bó 10 đóa, mỗi đóa một đồng. Tất Đạt liền lấy bóp tiền ở túi quần sau ra nhưng, chỉ còn 7 đồng sau khi kiểm lại. Chàng cảm thấy hơi buồn. Qua một vài giây ngập ngừng, chàng mạnh dạng nói với cô hàng hoa xin mua 7 đóa. Cô nàng nhất quyết bán nguyên bó, không bán lẻ, vì làm theo lời mẹ dặn. Chàng Tất Đạt im lặng, nói lời cảm ơn, rồi bước đi.

   Cô hàng hoa đưa mắt trông theo Tất Đạt cỡ mươi giây, rồi đứng lên, cất lời gọi Tất Đạt ơi ới, có lẽ nàng cảm thấy chạnh lòng. Nghe tiếng cô hàng hoa gọi, Tất Đạt quay lui. Cả hai, chàng nàng đều vui cười. Cô hàng hoa mở lời chịu bán 7 đóa, và xin gởi 3 đóa, nhờ Tất Đạt cúng dường lên Đức Phật Nhiên Đăng dùm cho nàng.

   Xong buổi thuyết pháp, trên đường về,  Tất Đạt được cô hàng hoa mời vào. Tại đây, mối tình  Hoa Sen Trắng đã được kết duyên bền vững giữa cô hàng hoa và Tất Đạt qua vô số kiếp A-tăng- kỳ, không rời nhau. Điều này được thấy qua quá trình A-tăng-kỳ kiếp, Tất Đạt ở các ngôi vị phu quân là Hoàng đế, Thái tử, Tướng quân, Thương gia, Dân giả,…Cô hàng hoa đóng ở ngôi vị phu nhân…bên cạnh. Đích thực, kiếp cuối cùng trước khi thành Phật, Tất Đạt là Thái tử con vua Tịnh Phạn kết duyên với Công chúa Gia Du Đà La, chính là cô hàng hoa trong vô lượng A-tăng- kỳ đó,

 Để biết rõ thêm, xin mời tất cả đọc giả đọc tác phẩm “Tình Trong Đóa Hoa”, sẽ thấy hoạt cảnh, mà những nhân vật đóng vai trong truyện, là những thanh niên nam, nữ  của  các gia đình Phật tử Việt Nam. (Được phỏng theo lời kể của cố HT Thích Thuyền Ấn, đã dựa vào Kinh Pháp Hoa, Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Đức Thich Ca Mâu Ni sẽ thành Phật khi còn là hàng Bồ Tát ở địa vị 7, 8, 9 …

 

 Tinh trong doa ho-2

CHƯƠNG MỘT

 

C

hiếc đồng hồ hiệu Manix trên tường đang ngân vang tiếng nhạc báo giờ làm cho Đạt tỉnh giấc. Chàng trở mình nằm nghiêng, cong như con tôm, rồi ngẩng đầu nhìn đồng hồ trên vách, thấy cây kim ngắn chỉ giờ nằm trên con số 5. Đạt vội ngồi dậy. Đôi chân trắng, dài, chắc nịch co dụm lại, khoanh tay bó gối giữa bộ ván màu gụ cũ kỹ lâu đời làm hiện rõ chiếc quần đùi và cái áo thun hở nách màu trắng với chiếc chăn carô xanh lam to sợi đang ủ ê duỗi mình một nửa dưới mông, một nửa nhăn nheo nằm bên cạnh đôi bàn chân.

Đạt ngồi thừ, im lặng như còn ngái ngủ. Đôi mắt nai có đôi mày ngài đen huyền dưới vầng trán rộng đang nhìn xuống, làm cho đôi mi cong dài hợp nhau, tô đậm màu đen như đôi mắt của pho tượng thiền Bụt, hiện rõ ở hai bên bờ thái dương tròn, đầy đặn và trắng trẻo của gương mặt. Chàng buông tay giụi mắt, nhìn lên luồng ánh sáng rực rỡ có chiều ngang hai tấc, đang nằm ngả nghiêng, trải dài trên vách tường màu hồng nhạt qua cánh cửa sổ khép hở về đêm của mùa hè.

Căn phòng của Đạt vốn sẵn sáng sủa do quay về hướng mặt trời mọc, cùng với tính giản dị của Đạt không bày biện rườm rà nhiều thứ, nên càng sáng hơn, dù là buổi sáng mùa Đông hay chiều Hạ tắt nắng. Bỗng có tiếng bà Lộc gọi vọng lên từ nhà bếp:

            - Đạt ơi, con đã dậy chưa? Nhớ hôm nay là ngày Phật Đản đấy nhé, lo mà dậy sớm để sửa soạn đi lễ với mẹ.

            Nghe mẹ gọi, Đạt vừa xếp lại chiếc chăn ca-rô vừa trả lời:

            - Vâng, thưa mẹ con đã dậy rồi ạ!

            Đạt có thói quen dậy sớm từ lúc lên bậc trung và đại học. Nên không hạn định vào những ngày đi làm, mà kể cả các ngày chủ nhật, ngày lễ. Cũng như hôm nào lỡ thức khuya để đọc cho hết một cuốn sách Phật Pháp của các vị Đạo Sư. Đạt vẫn dậy vào sáu giờ cho mọi việc nào là: tụng kinh Lăng Nghiêm, thập chú, thiền tọa hai mươi phút, ăn điểm tâm buổi sáng và mất nửa tiếng, cỡi Honda đến sở đúng tám giờ kém mười. Hôm nào không đến sở, sau giờ điểm tâm, Đạt đi thiền hành trong vườn, chân bước nhẹ chậm rãi, vững chắc trên những tấm gạch vuông đỏ dọc theo hàng rào dâm bụt. Sau mấy vòng đi tĩnh lặng, Đạt thường làm các động tác trong vườn như: đứng nhìn  các hoa hồng đỏ, nhung, trắng, vàng, và ngồi xuống nhìn vào gốc hồng. Lấy cây kéo cắt cây, cắt bỏ những cái hoa tàn úa trổ màu nâu sậm còn nằm trên cành cây. Đến góc vườn, kéo ống dây nhựa và mở nước tưới lên hoa, lá, cỏ, cây. Rồi dừng dưới hiên nhà, sửa lại các giỏ hoa lan đúng hướng có ánh sáng lờ mờ, vì hoa lan nào cũng có tấm thân gởi gấm, đeo chặt vào thân cây đại thụ như có vẻ cả một cuộc đời không chịu nắng mà chỉ chịu bóng râm.

            Mặc dù hôm nay là ngày chủ nhật, Đạt dậy sớm hơn thường lệ khi đồng hồ mới điểm nhạc năm giờ, là vì tất cả cho ngày đại lễ. Tinh thần hướng về ngày Phật Đản, Đạt đã chuẩn bị tư tưởng và ôm ấp tinh thần ấy cả tuần lễ trước, nên từ tối hôm qua, Đạt đã đi ngủ sớm để dậy sớm.

            Trong lúc bà Lộc, mẹ Đạt, đang làm thức ăn sáng ở bếp, Đạt làm vệ sinh cá nhân, phục sức quần áo, bỏ các thứ cần mang theo vào túi vải nâu như chiếc áo tràng lam, cuốn Nghi Thức tụng niệm, xâu chuỗi ngắn mười tám hạt Bồ Đề. Đạt xếp gọn túi vải nâu, cặp vào nách, đi xuống bếp.

            Thấy Đạt từ nhà trên xuống, bà Lộc ngưng tay cắt rau ngò để bỏ vào hai tô mì ăn liền hiệu lá Bồ Đề, nhìn Đạt góp ý:

            - Nè, hôm nay là ngày đại lễ, con nên mặc áo sơ mi tay dài cùng với bộ veston màu xanh đậm và thắt cà vạt màu hồng nhung giống như bao lần trước con mặc đi dạ hội, có hay hơn không! Cớ sao lúc này mẹ cứ thấy con mặc áo thun trắng cụt tay cổ bẻ. Còn quần, cứ mặc mãi quần màu cà phê sữa. Mặc như thế thiên hạ sẽ cười thầm gia đình ta quá nghèo, nên cứ mặc hoài một màu quần áo. Trong khi họ đâu có biết con đã mua một lô áo thun trắng cụt tay và quần kaki màu cà phê sữa. Con ăn mì xong rồi, nên phục sức lại đi nhé.

            Như có vẻ không nghe lời bà Lộc nói gì, Đạt đặt túi vải vào đầu bàn ăn, kéo ghế ngồi trong tư thế im lặng trong vài giây. Rồi như để tò mò, xem các thứ được nấu chung với mì có ngon như các lần trước. Đạt giở cái dĩa  đá màu gạch ra khỏi tô mì, đưa tay mân mê chung  quanh cái tô mì đang bốc hơi trong lúc đợi chờ bà Lộc bỏ ngò vào.

            Sau mấy tiếng “mời mẹ xơi mì”, Đạt cầm đũa gắp từng sợi mì đưa vào miệng, nhai một cách chậm rãi và thầm lặng. Sự thầm lặng trong bữa ăn đối với một gia đình người Việt như gia đình Đạt thật là hiếm. Ta tưởng chừng Đạt và mẹ Đạt là hai người Anh quốc, vì người Anh thường giữ yên lặng trong bữa ăn.

            Sở dĩ được như thế, một phần do Đạt đang thực tập đưa tâm an trú vào chánh niệm trong mọi tình huống sau những lần tham dự tu tập các khóa thiền quán tại chùa. Và thứ nữa, làm tăng thêm cho không gian nhà Đạt chìm vào yên lặng, nếu không nói là cô đơn, kể từ khi cha Đạt, ông Lộc rời khỏi gia đình về ở tại chùa Sơn Khê bên làng Dạ Thảo để lo việc phật sự do lời thỉnh cầu của thầy trụ trì Thích Viên Bảo là người em chú bác. Sự vắng mặt của ông Lộc đối với gia đình là cơ hội cho bà Lộc không còn đối tượng để nói nhiều, cơ hội dập tắt mọi phiền não ra khỏi tâm thức trên con đường tu tập của tuổi già. Còn đối với ông Lộc, ông ấy cũng được có cơ hội tụng kinh, niệm Phật, chấp tác công việc phụng sự Tam Bảo, sống trong không gian tĩnh mịch, hít không khí trong lành ở đồng quê của tuổi về chiều. Cái tuổi có đôi mắt muốn nhìn lên tượng Phật, muốn xem kinh sách, thích ngắm hoa huệ, hoa cúc bên vách chùa, ưa chăm sóc các bồn, chậu có cây hình con nai, con phụng trước sân chùa, thích uống nhiều tuần trà với cái chén hột mít trong giờ phút hàn huyên đạo lý với bạn bè.

            Ngoài hai yếu tố của tâm thức ra, còn thêm một yếu tố nòng cốt của bản chất là tánh trầm lặng, ít nói của Đạt, đúng với câu: “Rau nào sâu nấy”, hay “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Đạt càng lớn càng giống tính bố y hệt ở chỗ ít nói, vui cười đúng cách. Tuy nhiên, khi nói, nói chậm, nói rõ ràng đâu vào đấy từng sự việc.

            Bản chất của người ít nói thường ghét bỏ ai có thói ưa suy tư về các việc không tốt ở quá khứ của người khác, rồi khi bực tức đem ra nói đi nói lại. Nên trong thời gian trước đó, khi cha Đạt còn ở tại nhà, Đạt thường nghe mẹ Đạt, bà Lộc buông lời nói đi nói lại những chuyện cũ rích không đâu về ông Lộc ở quá khứ khi bà ta bất bình ông ấy về một việc nào đó rất nhỏ. Mỗi lần như thế, ông Lộc chỉ nói lại vài lời nhỏ nhẹ trước mặt vợ. Lời tuy nhẹ, nhưng sâu sắc có chứa đầy đạo lý thiền tịnh của đạo Phật. Còn Đạt, lẻn đi tìm chỗ ẩn núp để tránh không cho cái tai phải bị nghe hai ông bà đấu lý. Tuy nhiên, trong những lần ấy, có lần Đạt đã nghe được cha Đạt đọc thuộc lòng lời Phật dạy để cho mẹ Đạt nghe: “Hãy bỏ các điều ác đừng làm. Hãy nguyện làm các việc lành. Giữ tâm hồn luôn thanh tịnh. Đó là lời dạy của chư Phật”. Lời lẽ lần đó hơi lớn như muốn để nhấn mạnh cốt lõi đạo lý vi diệu ấy được chìm sâu vào tâm thức của vợ. Sau những câu đạo lý chữ Tịnh đó, Đạt nghe cha mình giảng thêm ý nghiã chữ ác cho mẹ: “Xin bà nhớ cho rằng; chữ ác ở đây không chỉ riêng cho những hành động sát hại, làm tổn thương, làm chảy máu thân thể chúng sanh. Nó còn chỉ cho tâm vọng thức của con người. Vọng thức không lớn, không nhỏ, vì hễ tâm con người có vọng là có nghiệp ác. Nghiệp ác chính là tâm vọng, tâm không thanh tịnh. Người học Phật đi ngược lại chân lý thanh tịnh ở tâm, người ấy không phải là người của đạo Phật”.

            Bà Lộc ăn xong trước, đứng dậy, đem muỗng, đũa, dĩa, tô của mình bỏ vào bồn gần bếp. Lấy ly uống nước từ trong cái mâm tròn bằng nhựa trên cái bàn nhỏ được kê sát gần tủ đựng đồ ăn. Lấy bình nước nóng từ trong vỏ bình bằng trái dừa khô, rót nước vào ly, rồi bưng ly nước trở lại ngồi ở đầu bàn ăn. Duy chỉ một mình Đạt còn ngồi. Đạt đưa mắt nhìn thẳng cửa sổ, miệng nhai chầm chậm, hai môi khép kín nhưng cục cựa làm cho cái hàm nhếch qua, nhếch lại, rồi lại nhìn vào tô mì. Bàn tay trái nâng nhích cái tô nghiêng một chút, bàn tay phải đưa muỗng vào đáy tô, vét nhẹ cho hết mấy sợi mì vụn và nước còn lại.

            Sự ăn mau của bà Lộc, không phải vì lý do chuẩn bị đi chùa sớm, mà là do bản tánh. Vì trong những ngày không đi đâu cũng vậy, bà thường rời khỏi bàn ăn trước mọi người trong nhà.

            Tánh ăn mau là mẹ đẻ ra nhiều bản tánh khác của con người. Trong những bản tánh đó, có thể là bản tánh mau mắn, cộng thêm tánh nóng nảy... Cũng như ăn chậm là bản tánh trầm lặng, có thêm đức tính nhẫn nhục... Chữ nhẫn nhục, đúng nghiã của nó ở tất cả mọi tình huống, mọi hoàn cảnh khó khăn, đau khổ...đều phải vượt qua; nếu không nói là thiền định trợ duyên. Từ đó, đức tánh của Đạt vốn thầm lặng, được tăng thêm mức độ trầm lặng hơn do qua quá trình tham dự thực tập ở khóa quán niệm hơi thở do thầy Nhất Hạnh và đại chúng Làng Mai về tổ chức tại chùa.

            Trầm lặng không có nghĩa là chậm chạp, trì hoãn. Cho nên, có lúc bà Lộc giao cho Đạt một số công việc khá bề bộn mà bà tưởng chừng Đạt phải mất hơn hai tiếng đồng hồ mới xong. Nhưng chỉ hơn một tiếng là xong đâu vào đấy  một cách chính xác, gọn gàng, có hiệu quả về chất lượng.

            Bà Lộc đang bưng ly nước nóng đưa lên môi, nhắp vài cụm, bỗng có tiếng đàn bà từ ngoài cổng gọi vào ơi ới:

            - Chị Lộc ơi, ra đây nói cái này nghe.

            Bà lộc nghe có tiếng người gọi mình ngoài cổng, bà vội đặt ly nước lên bàn, đứng dậy, nhìn về phía Đạt, hất hàm, nói:

            - Ăn xong, con gom hết tô, dĩa bỏ vào bồn, để đó, chiều đi lễ về sẽ rửa.

            Nói xong, bà quay lưng đi ra cửa hông của nhà bếp.

            Vừa trông thấy bà Lộc đang tiến ra trên con đường lát gạch bên hiên nhà, bà Nữ, bà Phụng mỉm cười nói lớn bằng giọng Bắc 54 lai Sàigòn, bà Nữ nói:

            - Giời đất ơi! Bà biết không, tụi này gói chả lụa chay, lại mua nhầm gói phù chúc quá cũ, gần như có mọt, nên mới vừa bỏ vào nước sôi, chẳng những không bung thành miếng, lại vỡ ra từng mảnh vụn, làm hỏng hết cả! Thành ra chiều qua, tôi lại phải sai con Dung nhà tôi ra chợ mua thêm vài lọ chao Tàu và mấy chai xì dầu hiệu lá Bồ đề để nhỡ ra sau lễ, chùa hết thức ăn, cho các bác dọn dẹp họ ăn.

            Bà Nữ vừa dứt lời, bà Lộc nói:

            - Với chùa, không biết bao nhiêu gọi là đủ! Thôi thì, thứ nào cũng tốt, bằng tấm lòng thành là hơn vật chất. Tôi chả mang gì nhiều, chỉ có nửa ký bột ngọt, hai ký đường cát trắng, vài lố kẹo đậu lạc để phụ thêm cho mâm cúng thí vào buổi chiều, bấy nhiêu thế thôi.

            Có vẻ như trùng ý với mình, bà Phụng nhìn bà Lộc nói:

            - Em cũng vậy chị ạ! Theo em thấy, cúng dường Tam Bảo là bổn phận của người Phật tử. Ngay cả Đức Phật hồi xưa, trước khi thọ trai, Ngài còn phải bưng bình bát lên trước trán đọc bài Kinh cúng dường hướng về chư Phật Tỳ Lô Giá Na trong quá khứ đang an trụ trong mười phương, huống hồ giới Phật tử chúng ta. Nhất là hai chúng cư sĩ mỗi lần đi lễ Phật tại chùa chẳng lẽ đến không, phải cúng dường. Tuy nhiên, cúng dường, cúng theo tài chánh của mình, cộng với tấm lòng phát nguyện của mình. Phật thời xưa và Tăng bảo thời nay không bắt ai phải cúng nhiều, cúng ít và cũng không bắt buộc là phải cúng. Với các chị thế nào em không biết, chứ còn gia đình em lúc này kinh tế eo hẹp lắm! Do vậy, em chỉ mang một ít hương đèn, một vài ký đậu xanh vừa mới thu hoạch, và một ít trái cây thôi.

            Bà Phụng vừa dứt tiếng, bà Nữ liền hứ, rồi tiếp theo một tràng ngôn ngữ:

            - Hứ, các bà lúc nào cũng nói chả có gì, chả có gì mà xách của bà nào bà nấy nặng trình trịch, mang cho xả vai! Lần nào đi chùa cũng thế! Thôi nhé, tụi này qua chị để hỏi chị chuẩn bị xong chưa qua mà đi. Thế là tụi em xin phép về nhé.

            Bà Lộc đáp lời hai bà bạn hàng xóm:

            - Vâng, tôi cũng đã xong mọi thứ rồi đấy, hai chị về, tôi sẽ qua ngay.

            Đang ngồi chéo chân chữ ngũ bên mé đi văng màu gỗ cũ kỹ, xỉa răng, trông thấy bà Lộc từ ngoài bước vào cửa hông, rẽ phải, đi thẳng lên luôn nhà trên, Đạt vội hỏi:

            - Thưa mẹ, bao giờ mẹ mới đi?

            Hình như không nghe Đạt hỏi, bà Lộc mất dạng sau cánh cửa. Chỉ vài giây, bà quay trở lại xuống bếp, đến bàn ăn, thò tay kéo hộc bàn, miệng nói:

            - Tý nữa đây, mẹ qua nhà bác Nữ để đi cùng xe với các bác bên ấy.

            Đạt ngồi im như không để ý lời mẹ nói gì, đoạn đứng lên, bước đến bên cửa sổ, đưa tay đẩy cánh cửa cho nằm sát vách bên ngoài để lấy cái ánh sáng chân thật của ban mai cho nơi chốn mình được sáng sủa. Đạt đưa mắt nhìn ánh nắng tháng tư đầu mùa Hạ của buổi sớm đang chói chang xuyên qua các cành cây, trên đầu ngọn cỏ ở bên kia bức tường vôi trắng đang ngả màu xanh rêu.

            Chính trong những giây phút đứng yên, nhìn xa xăm ấy, như thể Đạt đang sắp đặt mọi việc trong ý tưởng mình nên Đạt quay mặt, dựa lưng vào bệ cửa sổ, hỏi bà Lộc:

            - Thế là mẹ không đi với con thật à?

            Bà Lộc nghe con hỏi, bà nhìn Đạt nói ngập ngừng:

- Mẹ đi với con thì ... cũng được, nhưng thôi! Vì cái giỏ xách nhiều đồ lắm! Nó nặng và cồng kềnh, nên chi đi xe hơi cho tiện. Vả lại, đi với các già vui hơn. Thứ nữa, mẹ muốn để cho con được tự do đi với bạn bè, vì tuổi của con cần có bạn cùng đi mới vui.

            Bà Lộc vừa dứt lời, Đạt rời cửa sổ, đến ngồi trên đầu đi văng, lấy túi vải nâu ra khỏi vai, để trên hai bắp vế, nhìn túi vải, đưa bàn tay phải vuốt nhẹ qua lại, miệng nói chậm rãi:

            - Con muốn phục vụ mẹ trong lúc mẹ già. Con đâu có thích đi với ai bằng Honda ngoài mẹ ra. Nếu có đi, con chỉ đi với bạn trai như Phước, và Tân bên xóm. Mà đi, là đi bộ từ nhà đến chùa, đến văn phòng xã khi ở đó mít tin, biểu tình chống cộng sản. Đi bộ là phương pháp làm cho cơ thể con người được khỏe ra. Tuổi của mẹ lúc này cần phải đi bộ.

            Nghe Đạt nói, như để bào chữa ý tưởng xúi giục Đạt đi với bạn gái ở câu nói vừa rồi. Bà Lộc bào chữa từng câu và nhấn mạnh:

            - Mẹ nói “đi với bạn” không có nghiã là mẹ ám chỉ con phải đi với bạn gái. Và, nếu có đi với bạn gái, đâu phải là điều xấu! Biết đâu trong đám bạn gái, có đứa tốt, sẽ trợ duyên cho con thực hiện thêm hạnh nguyện nào đó trên đường phụng trì đạo pháp. Chẳng hạn như trước đây khi con còn sinh hoạt trong Gia đình Phật tử Lộc Uyển chùa Bảo Quang, con Nguyên Thảo từng sát cánh bên con, lặn lội đó đây để xin vật liệu, xây dựng cho Gia đình Phật tử Lộc Uyển một đoàn quán. Tư tưởng tốt sẽ có hành động tốt là do lòng ta. Và thứ nữa, tánh của mẹ ưa cà kê với các già về chuyện đời, chuyện đạo, làm cho con có lúc phải ngồi đợi.

            Thật sự, bà Lộc cũng muốn cho con trai mình có bạn gái để tiến đến lập gia đình, vì tuổi của Đạt ở lứa tuổi ba mươi, tuổi trưởng thành trên các mặt đời cũng như tôn giáo. Tuổi mà người xưa đã nói “Tam thập nhi lập”, nghiã là tuổi ba mươi của người con trai nói riêng; vì trí khôn của nam nhi ở tuổi đó thường được phát triển, nếu không nói là an định và kinh nghiệm về hôn nhân, về sự sống. Tuổi có năng lực về thể chất, cũng như có tư cách lãnh đạo trong việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Người con trai ở vào lứa tuổi ba mươi được ví như các loài hoa, cây cối đang đâm chồi, nảy lộc, ra lá, trổ hoa vào mùa xuân. Do vậy, đời thường có câu: “Trai ba mươi tuổi còn xinh, gái ba mươi tuổi như chình mắm nêm”.

            Với những bà mẹ Việt Nam đa số đều có ý tưởng lo lắng cho con cái mình về gia thất khi chúng đến tuổi trưởng thành. Ý tưởng đó, có bà nói trắng ra trước mặt con cái, có bà nói xa nói gần hàm chứa ý tưởng gán ghép của mình nhưng, bà Lộc chỉ mớm ý mà đã bị Đạt bàn ra, không đồng tình. Sự không đồng tình của Đạt không có nghiã là tâm của Đạt trơ như đá, sừng sững như cỏ cây, không khái niệm, không ý thức nhận biết phân chia khi nhìn đến cảnh và người. Mà sự không đồng tình ở đây trên cơ sở là Đạt đang tu tập thiền quán ở khế lý: “Các pháp đều không”. Do vậy, mặc dù Đạt đang đứng trong lòng ao bùn trần gian, tấm thân tứ đại đang bị bùn lầy, ngũ trược bao vây, nhưng tâm ít khi bị các sắc trần quyến rũ. Nói khác hơn, Đạt đang tiếp xúc nhiều hạng người trong xã hội, đối diện khổ đau và hạnh phúc, Đạt vẫn bình tâm như vại. Tức là tâm của Đạt gần như muốn đứng ra ngoài thế gian. Từ chỗ đó, như đoán được ý bà Lộc, Đạt cũng mớm ý của mình cho mẹ Đạt biết rằng: việc lập gia đình không quan trọng, nếu có chỉ là hạnh nguyện cùng với nhau cứu đời mà thôi.

            Ý tưởng xuất thế của Đạt mạnh hơn là nhập thế. Ý tưởng siêu việt ấy mỗi ngày mỗi tăng. Nó đưa thân tâm của Đạt chung quy vào con đường chánh đạo. Nên chi hằng ngày khi ở sở về, Đạt tắm rửa, ăn ba miếng, sau đó đi thiền hành trong vườn. Thiền hành của Đạt vào buổi tối sau bữa ăn cũng là cách làm cho thức ăn trong bao tử mau tiêu hóa để được ngồi lâu cho thiền tọa, đọc kinh, đọc sách Phật pháp, có khi nâng cặp tạ thể dục hay giúp bà Lộc vài công việc lặt vặt trong nhà.

            Đúng, con hơn cha là nhà có phúc. Từ ngày Ông Lộc về ở tại chùa bên làng, Đạt lo chăm sóc mẹ Đạt hơn bao giờ hết. Nhất là đời sống tâm linh, Đạt thường xuyên giảng pháp cho mẹ nghe. Mỗi lần như thế, bà Lộc ngồi nghe một cách im lặng. Có lần đôi mí mắt của bà đỏ hoe, có vẻ gần như ứa lệ, vì lẽ niềm sung sướng chảy dài và tràn ngập trong tâm tư bà khi nhìn thấy con trai mình ngày càng lớn, cơ thể và tánh tình càng giống bố nó y hệt. Nếu không nói là có sự trống vắng trong lòng khi lòng bà chứa đầy nỗi niềm nhớ nhung ông Lộc. Mặc dù thỉnh thoảng ông ấy có về thăm, nhưng bà vẫn cảm thấy thời gian xa cách không dừng lại.

            Sau khi dứt lời cải chính ý tưởng của mình cho Đạt hiểu, bà Lộc lên nhà trên chừng vài giây. Bà trở xuống, hai tay bê cái giỏ lác no tròn trước bụng, rồi bà đặt nó tại cửa hông nhà bếp. Bà lại lên nhà trên lần nữa, rồi quay xuống với hai bàn tay bám chặt vào mấy gói mì ăn liền hiệu Lá Bồ đề, bà vừa đi vừa nói một mình: “Đem thêm một ít mì gói cho Thầy trụ trì ăn sáng”.

Thấy mẹ đang loay hoay bên cái giỏ, lấy thứ này ra, bỏ thứ kia vô, Đạt đến ngồi bên góp ý:

            - Mì gói, mẹ nên bỏ trên cùng, vì mì dễ bị vỡ nát. Còn kẹo đậu lạc, đường, và bột ngọt nên bỏ dưới cùng. Hai cặp đèn sáp và bó nhang giải thoát, mẹ chèn chúng ở hai bên giỏ. Nghe Đạt góp ý đúng lý, bà Lộc gật đầu nói:

            - Ừ, đúng đấy con!

            Vừa bỏ các thứ vào giỏ, miệng vừa hỏi Đạt:

            - Như vậy, con quyết định đi bộ, chứ không đi Honda à?

            - Thưa mẹ, hôm nay con sẽ không đi Honda. Con đi bộ cùng với Phước và Tân bên xóm Mía. Chúng con thích đi bộ vào buổi sáng. Vì đi bộ từ đây đến tận chùa chỉ mất gần tiếng. Bây giờ là bảy giờ kém mười, đến tám giờ hơn một tý là chúng con có mặt ở đó. Hơn nữa, lễ sẽ bắt đầu vào lúc mười giờ. Vả lại, mọi việc nặng như dựng lễ đài, treo biểu ngữ, giăng cờ đã được bọn trai tụi con làm xong từ chiều kia. Và thứ nữa, lâu lắm, từ ngày nghỉ sinh hoạt Gia đình Phật tử đến nay, mấy khi mà được đi bộ trên con đường làng đất đỏ quanh co này! Nay là dịp được đi lại. Đi bộ là phương pháp giảm bớt các bịnh tật, mẹ nên đi bộ để hạ thấp huyết áp. Và cũng nhân hôm nay, khi đi qua làng Sen, chúng con sẽ lội xuống ao hái hoa. Hoa ban sớm tươi và thơm lắm. Nhất là hoa sen trắng thơm hơn hoa sen hồng. Nhưng thôi, chúng con sẽ không hái, mặc dù ao đó là của làng, dân làng có quyền lội xuống hái, nhưng theo tinh thần của buổi họp cách nay ba năm, các bác trong các làng đã đồng ý thành quyết nghị cơ bản ghi rõ vào mùa sen nở, bác Từ lo hương khói cho Miếu làng sẽ hái hoa bán lấy tiền làm quỹ cho việc tế lễ vào mùa thu, vì Miếu của làng ta có tục lệ Tế Thu. Nếu vô tình hái một đóa hoa, trước hết chúng con phạm giới ăn trộm. Vì giới luật Phật dạy “Các vật nhỏ như cây kim, ngọn cỏ, không cho mà lấy, thảy đều là ăn trộm”. Vả lại hoa sen và búp sen già là tài sản chung của làng. Nên hái hoa, hái búp là ăn bớt tiền cúng tế thánh thần. Đạt vừa dứt lời, bà Lộc nói:

            - Thế thì, đâu cần gì phải hái, lội xuống bị dính bùn, còn thêm bị phạm giới, mua quách cho rồi có hơn không?

            - Vâng, con sẽ mua, con thích hoa sen lắm cơ! Nhất là hoa sen trắng, nó được chọn làm huy hiệu cho đoàn viên Gia Đình Phật Tử và Đức Phật đã lấy tên hoa sen trắng đặt tên cho bộ kinh Pháp Hoa, gọi cho đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”. Mẹ biết điều đó chưa? Vì kinh Pháp Hoa là mẹ của các kinh, mang tư tưởng Đại Thừa; một chiếc xe lớn đang chở đầy khế lý chỉ cho chúng sanh phương pháp tu thành Phật. Vì vậy bài hát của Gia Đình Phật Tử là bài Hoa Sen Trắng.

            Đang nói, Đạt thấy mẹ vất vả đưa bàn tay phải, chìa ngón tay cái và ngón tay giữa ra, níu hai cái quai giỏ sát lại với nhau để lọt vào lòng bàn tay cho dễ xách, Đạt liền ngưng, nói lớn:

            - Mẹ, làm gì mà vất vả vậy, để đó con xách qua nhà bác Nữ cho!

- Được rồi, để mẹ xách. Đi sau con nhớ khóa cửa nhà trên, nhà dưới và cài then cổng trước cho kỹ nhá. Mặc dù các xóm làng của ta từ xưa nay không có xảy ra vấn đề trộm cắp. Tuy nhiên, hễ ra khỏi nhà, nếu không còn người ở lại, cửa nhà và cổng được khóa kỹ. Khóa kỹ để ngừa người ngay, chứ không thể ngừa kẻ gian.

            Dặn dò xong việc khóa cửa nhà. Bà Lộc xách giỏ, đứng lên, bước ra cửa hông, đi hơi nghiêng mình về phiá trái trên con đường lát gạch bên hiên nhà. Đạt đi theo sau như để tiễn mẹ ra cổng, nên Đạt đi nhanh, tạt bên hông bà Lộc, rồi cắt góc, bước mau trước mặt bà Lộc. Đến cổng, mở cửa, Đạt đứng bên, nói:

            - Thưa mẹ, đi!

            - Ừ, con cũng nên lo mà đi, kẻo trễ đấy nhé!

Đạt đi theo mẹ ra khỏi cổng, đứng lại, đưa mắt nhìn nghiêng về phiá bà Lộc cho đến khi bà Lộc mất dạng sau cửa cổng nhà bà Nữ mới thôi. Rồi Đạt bước qua bên kia lề đường. Đứng đó, quay mặt nhìn sang mấy bụi chuối bên hàng dậu nhà ông sáu Chánh. Đạt nhìn không chớp mắt đến những tàu lá non xanh đang lắc mình nhè nhẹ như những cái nhịp cánh của những con bướm đang đậu trên đóa hoa, chiếc lá sau mấy vòng lượn quanh trong vườn dưới ánh nắng mặt trời vừa mới lên tới đỉnh đầu bụi chuối. Đạt nhìn đồng hồ trên tay, liền quay mặt vào cổng, vừa đi miệng vừa nói: “Mẹ già như chuối ba hương, như sôi nếp mật, như đường miá lau.

 

 

                                   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG HAI

 

T

rông thấy Đạt đang đi vào giữa hai hàng rào dâm bụt, Như Phương ra mở cổng. Chưa tới cổng, còn cách đến những non một mét, Như Phương mỉm cười, cất tiếng:

            - Em chào anh Đạt!

            - Vâng, chào em! Tân thức dậy chưa, chắc là còn ngủ, phải không?

            Đúng vào lúc giữa tiếng chào, hỏi đáp lễ lại của Đạt. Như Phương khom người, đưa tay tháo then cửa, kéo cánh cửa cùng đi lui với mình, vừa lui vừa nói:

            - Thưa anh, anh Tân đã đi cùng với anh Phước khi anh ấy cỡi Honda đến đây lúc cỡ sáu giờ, rồi hai anh đèo nhau đi.

            Cánh cửa vừa hé đủ để đi vào không bị vướng, Đạt liền bước vô, đứng lại giữa sân, nói:

            - Em có biết hai anh ấy đi đâu không?

            - Em chả biết rõ. Tuy nhiên, em có nghe loáng thoáng là đi ra chợ Huyện Phong Lan uống cà phê và mua thêm dây điện để đem lên lễ đài trên chùa chi hội. Và, em cũng có nghe các ảnh nói với nhau rằng: “Đến chùa chi hội Phong Lan để xem nơi ấy tổ chức Lễ Phật Đản như thế nào, sau đó về lại chùa chi hội Sơn Khê vẫn còn kịp”.

            Như Phương trả lời xong một tua về Tân và Phước. Nàng buông bàn tay phải trên vai trái xuống, nghiêng đầu đưa tay phải ra sau cổ gom mái tóc nằm gọn ra phiùa ngực, trả lời:

            - Mời anh vào nhà, nghỉ một tý đã!

            - Vâng, được rồi, để mặc anh!

            Đạt đứng yên, bàn tay phải vẫn nắm chặt cái quai của túi vải nâu trước ngực, mắt nhìn bóng của hàng cau đang ngả dài một nửa lên mái tóc, bờ vai Như Phương, làm cho tấm thân cao nhòng của nàng, một nửa đen, một nửa tắm trong nắng mai rực rỡ càng thêm sáng rực nơi bộ áo quần kiểu Hồng Kông bằng vải xoa màu trắng.

            Như để không gian đừng chìm vào sự yên lặng giữa Đạt và mình, Như Phương hỏi Đạt:

            - Các anh có hẹn với nhau không?

            Đạt đưa mắt nhìn lên hàng cau, nhìn lại xuống chân mình, mím môi, nói:

            - Đúng, không có hẹn, nên mới không gặp đây nè và sẽ lặn lội đi tìm!

            Như Phương cười ngả nghiêng, vội đưa bàn tay phải lên miệng để che cái răng khểnh hàm trên bên phải, nói nho nhỏ sau bàn tay:

            - Cho anh chết vì cái tội không hẹn nhau!

            Đạt cũng đồng tình, nên cười mỉm theo. Sau đó Đạt nhìn vô nhà, hỏi Như Phương:

            - Hai bác vẫn còn ngủ?

            - Không, thầy mẹ em dậy từ sớm cơ! Và cũng đã đi lên chùa huyện để dự lễ Phật đản, đi cùng với các bác bên xóm từ lúc nãy.

            Đạt hỏi:

            - Còn em, sao hôm nay em lại ở nhà, không đi dự lễ Phật đản?

            - Em hả, em không được đi, chứ không phải là không đi! Em phải ở nhà trông coi mấy cái nia mốc tương, nếu không phơi nốt hôm nay, nó sẽ bị hư!

            Đạt lấy túi vải nâu từ vai phải xuống, xếp gọn lại, kẹp vào nách, nhìn Như Phương gật đầu nói:

            - Thế này nhé, nếu hai anh ấy có về lại đây, vì đằng nào từ Phong Lan người ta muốn đi đến Sơn Khê phải đi qua đây, hy vọng hai anh ghé lại đây. Nếu hai anh ấy có về lại đây, em nói rằng trên đường về chùa sẽ gặp anh ở đoạn đường tại làng Đậu hoặc làng Sen. Thôi anh đi ngay bây giờ, xin cảm ơn em.

            - Không có chi, em chào anh, kính chúc anh thượng lộ bình an.

            Đạt ra khỏi hai hàng rào dâm bụt nhà Như Phương, cái túi vải nâu được tiếp tục nằm trên vai phải. Đôi chân Đạt bước hơi mau giữa lòng con đường đê mới đắp có đất cục chưa khô hẳn, còn xám đen dọc hai bên lề, làm cho chân Đạt bị vướng, xuýt gần té sấp.

            Chỉ trong khoảnh khắc của năm phút, Đạt đã ra tới con đường lớn. Con đường mà Đạt đã quen đi lại hơn một lần. Nó là con đường huyết mạch của hai Huyện Phong Lan và Sơn Khê. Đường quanh co, nối liền xã này đến xã khác. Từ lúc nhỏ, mới lên hai, ba tuổi. Con đường và Đạt đã gắn bó thâm tình.  Dù bàn chân của tuổi ấy chưa đủ vững chắc giẵm lên mặt đường, nhưng vẫn được qua lại vào dịp có tế lễ ở miếu làng, được bố mẹ cõng trên vai. Rồi tuổi lên năm, lên mười, con đường đất đỏ ấy đã cho Đạt nhiều kỉ niệm đùa vui. Vui, khi tan học được chạy nhảy tung tăng, đuổi nhau trên đường, dừng chân tụm năm, tụm ba đánh đáo, bắn bi trên đường quên giờ về. Hôm nào cô, thầy bận việc cho lớp nghỉ. Cả lớp tung chạy như đàn ong vỡ tổ. Được dịp rủ nhau xuống cống bắt cua đem về nhà, lấy chỉ cột vào càng làm trâu kéo xe bằng hộp quẹt diêm có chở hòn bi trên đó. Hay có khi la lết khắp bờ đê để bứt những cây “cỏ gà”, rồi cùng ngồi đá gà với nhau. Gà cỏ của đứa nào bị sứt đầu, đứa đó bị gõ đầu gối. Đứa được gõ thì cười hi hí. Đứa bị gõ cái mặt bí xị, chờ dịp để trả thù nhưng, có lúc gà cỏ bị sứt đầu mãi. Thế là không có dịp trả thù, nên gây nhau.

            Thời gian đã trôi qua như con thoi, con người cũng theo đó mà đổi thay thấy rõ. Nhưng, với cảnh vật ít khi thấy được sự thay đổi của chúng. Mặc dù theo định luật vô thường, mọi vật đều biến đổi trong sinh, diệt. Vì hễ có sanh là có diệt, sanh ít mà diệt nhiều. Ta thấy sự diệt đó ở con người nhiều hơn là mọi vật. Từ chỗ đó, dù qua những thời gian đi đi, về về, vắng mặt ở xóm làng cho việc học hành ở bậc trung và đại học tại tỉnh nhưng, không thể nào làm sao mà quên được những con đường lớn nhỏ quanh co trong làng, cái miếu, cây đa, cái ao, con mương, cái cống... vẫn nằm yên như đợi chờ người ra đi, có ngày trở lại.

            Khi quẹo vào ngã quanh, Đạt cảm thấy trong người mát rợi vì được đi ở đoạn đường có hàng tre cho bóng. Hàng tre này, những người dân trong hai Huyện Sơn Khê và Phong Lan không ai mà không biết. Vì những đặc điểm của nó: thân to và cao, không có gai, nên dân trong các làng xã ưa đến làng Đậu mua tre.

            Vào những buổi trưa hè, đi qua lũy tre của làng Đậu, hầu hết không ai muốn rời gót, mà chỉ muốn đứng đó mà thưởng thức bóng râm mát rợi của nó. Nên lũy tre là mục tiêu hẹn hò của trẻ con trong làng cho việc đánh đáo, bắn bi, u mọi, kéo co ngay cả vào mùa Xuân, không riêng gì mùa Hạ.

            Trên con đường đất đỏ hôm nay có vẻ nhộn nhịp hơn mọi ngày. Mới sớm mai tinh sương, người dân ở các làng phiá đông như làng Me, làng Mía, làng Thơm. Phía tây có làng Đậu, làng Sen, Dạ Thảo, đã lũ lượt từ những con đường nhỏ đất trắng tiến ra con đường lớn đất đỏ. Hầu hết người ta đổ xô về phiá Tây Bắc, nơi có thị trấn Huyện Sơn Khê. Người nào người nấy ăn mặc tươm tất. Các cụ ông lớn tuổi, đa số mặc áo dài đen, có cụ đội cả khăn đóng. Các bà, các chị lớn, các cô trẻ, có người mặc áo dài đủ màu sắc và hoa hòe. Và, có những chiếc áo dài được thêu lên đó, một nhành mai vàng nằm bên ngực phía trái hay là một bụi trúc lá xanh, thân vàng sậm từ cổ áo xuống tận đầu gối. Có bà mặc áo dài nâu, đeo cả chuỗi hạt Bồ đề vào cổ. Các cô trẻ mặc đồ tây đúng thời trang. Còn các thanh niên nam, đa số mặc veston. Trên vai, trên tay của mọi người đều có gánh, mang, xách, khiêng những phẩm vật: hương, đèn, hoa, quả và các thứ bánh trái, v.v. Có người dẫn theo cả con nít của họ. Chúng mặc áo quần đủ kiểu, đủ màu sắc, có hình chim cò, các nhân vật thể thao nổi tiếng trên áo. Có đứa đi đầu không, có đứa đội mũ lưỡi trai. Chúng vừa đi, vừa chạy để theo kịp người thân gánh gồng đi trước.

            Nhìn thấy sự góp mặt đông đảo, cách phục sức tươm tất không kém phần trang nhã của mọi người trên con đường làng đất đỏ vào những buổi sớm hay chiều. Ta biết ngay hôm ấy là ngày lành tháng tốt, ngày của người dân đi lễ chùa, nhất là ngày Phật Đản, Vu lan và Tết Nguyên Đán.

            Qua khỏi quán tạp hóa bà Trúc, nơi ngả ba của con đường đầu làng. Đạt chuẩn bị sự thăm hỏi nơi bán hoa, nên đi chậm lại để đợi bà con từ trong làng Sen đang đi ra đường lớn. Chẳng mấy chốc họ đã bắt kịp Đạt. Đạt đi giữa những khuôn mặt ngây thơ, thật thà, sạm nắng. Thời gian bây giờ là một ý niệm. Đạt quay mặt nhìn sang phải, một người đàn ông trạc tuổi 70 nhìn đáp lại trong lạnh lùng, rồi quay mặt tiến bước. Tìm thấy hình ảnh quen thuộc đang đọng lại trong ý thức, Đạt nhìn ông ấy lần nữa, hỏi lớn:

            - Thưa bác có phải là bác Khương?

            Bất chợt nghe hỏi tên mình, ông già quay qua nhìn Đạt bằng thái độ thân mật, trả lời:

            - Vâng, bác là bác Khương đây! Cháu ở làng nào mà biết bác?

            - Cháu ở tận làng Mía cơ! Làng cháu thường gọi là Xóm Miùa, vì làng có hai xóm: xóm trên và xóm dưới, hai xóm cách nhau một con rạch.

            - Ở làng Mía đó bác nhớ có ông Bộ, ông Chánh, ông Sanh, ông Lộc có bà vợ nói tiếng Huế làm nghề dạy học, nên dân làng thường gọi là bà Hương Lộc, còn giới giáo chức gọi là cô giáo Hương.

            Nghe đến tên cha mẹ mình, Đạt cắt lời ông Khương, tự khai:

            -Vâng, cháu là con của ông Lộc và bà Hương đây.

            - Té ra, cháu là con của ông Lộc! Vậy cháu tên gì, vì lớp nhỏ sau này bác ít biết?

            - Thưa bác, cháu tên Lê Tất Đạt.

            - Uạ! Tên ba cháu là Lê Phát Lộc, mà sao chữ lót lại là Tất?

            - Vì ba cháu muốn cháu giống ông nội cháu về mặt tu niệm, nên lót chữ Tất. Ông nội cháu lúc sinh tiền có tu, ông nội cháu là Lê Tất Bảo. Hôm nay bác đi đâu mà ăn mặc chỉnh tề thế?

            - Cháu không biết hôm nay là ngày Phật Đản sao? Lễ này là lễ lớn nhất trong mỗi năm của Phật Giáo. Cháu à, thật ra không cần phải là lễ lớn hay nhỏ; hễ đi chùa lễ Phật là phải ăn mặc cho trang nhã, lịch sự, kín đáo. Nhất là người nào đã quy y Tam Bảo, ăn chay, tụng kinh, nghe pháp... Khi đến chùa là phải mặc áo giới , thường gọi là áo tràng lam. Đó là sắc phục đặc biệt cho những người phật tử cư sĩ có chánh tín. Vậy mà, bác thấy có nhiều ông  bà đã quy y Tam Bảo đến chùa để tụng kinh nghe pháp không thấy họ mặc áo tràng. Chẳng những thế mà còn cứ đi ra đi vào trong lúc một vị sư đang giảng thiền cho các phật tử. Còn có những vị nam, nữ cư sĩ làm đến chức chánh, phó trong hội Phật Giáo, ít khi thấy họ mặc áo tràng, thường mặc áo veston, áo đầm hở ngực, hở vai, đi chung quanh chùa trong những ngày lễ Phật, trông có vẻ như ông chủ nhà.

            Thấy Đạt nghe mình kể, không có ý kiến gì, ông già Khương ngưng một chút rồi kể tiếp:

            - Bác có nghe các Thầy đi Nhật, Đài Loan, Nam Hàn về kể lại: Phật tử của các nước đó họ tu và hiểu Phật pháp kỹ lắm, nên ăn nói rất là lễ độ với các chư Tăng, thâm tình với bạn đạo. Vì chỗ hiểu Phật pháp đó, nên trong sinh hoạt họ có sắc phục riêng. Nói là riêng, thật ra sắc phục đó giống như áo tràng lam của Phật tử Việt Nam. Nè, vừa rồi bác có lên tỉnh đến thăm một ông bạn, nhân dịp đó, ông bạn dẫn bác đi tham dự lễ tưởng niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức và các thánh tử đạo hy sinh vì Đạo pháp vào năm 1963 tại Quận Cam do Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo tổ chức. Chao ôi! Buổi lễ trang nghiêm lắm! Từ ông chủ tịch xuống đến hội viên cư sĩ của hội đều mặc áo tràng lam, tụng niệm rôm rả, và có cả tán xấp bài Dương Chi nữa.

            Đạt đoán biết tính của ông Khương thích nói nhiều, nên cứ âm thầm trong từng phiến cô đơn, bước đi nhịp nhàng, ăn khớp với tốc độ của ông già Khương.

            Bất chợt thấy đầm sen bên vệ đường, nó gợi lên ý tưởng ấp ủ mua hoa, Đạt nhìn say đắm những đóa sen hồng, trắng đang lay nhẹ trong gió mai dưới ánh mặt trời lên cao đang biến dạng màu hồng nhạt. Đạt cảm thấy đôi vai như rớm mồ hôi, vội lấy túi vải xuống, cầm trong tay, hỏi ông Khương vừa lúc ông ấy ngưng nói trong vài giây:

            - Thưa bác, mấy cô đi trước, trong đầu gánh có hoa sen hồng, trắng tươi. Hoa đó, các cô ấy mua hay hái ở ao vậy, bác?

            - Cháu nên biết rằng: Nói về làng Sen là phải nói đến ao sen. Làng Sen có nhiều ao sen lắm, mà nói thêm nữa là nghệ thuật trồng sen. Không biết họ trồng thế nào! Hễ cứ đến đầu mùa hạ là có một ít hoa đầu tiên. Hoa sen nở sớm đó hầu hết được thực hiện trồng trong chậu lớn. Dân làng Sen, nhà nào mà lại chẳng có một hoặc vài chậu sen! Hoa, các cô đang gánh thường là hoa riêng tại nhà hay là cũng có thể hoa mua, biết đâu! Còn hoa trong các ao, ban quản trị miếu làng đảm trách bán. Nên vấn đề bán hoa, do con cái của các ổng, hoặc là có người trong làng đưa tiền trước cho ban quản trị để mua hết các ao sau Tết. Đến mùa Hạ sen nở, họ hái hoa, hái búp gìa, bán hoa, bán hột. Nhằm lúc được muà hoa, được lời to. Ngược lại, huề vốn hay lời ít. Nhất là đến ngày Phật đản, tại đoạn đường gần làng Sen, ở đó có nhiều người bán hoa. Bộ cháu muốn mua hoa hả?

            - Vâng, cháu thích hoa sen lắm! Nên, hôm nay, cháu quyết định đi bộ để mua. Hơn nữa, hoa sen phải được cầm trên tay, được gói thành bó bằng lá sen, mới đúng nghiã trọn bộ. Chứ hoa sen không thể chở ở phiá sau xe gắn máy, nhất là xe đạp dễ bị gẫy cánh. Ngoại trừ bỏ trong thúng, gánh đi mới an toàn.

            Từ xa, có bóng người dụm năm, dụm ba ở vệ đường bên phải, làm cho Đạt nghe trong lòng sự mong ước về hoa đang thầm lặng giục giã. Khiến đôi chân của Đạt chuyển biến đột ngột ở mức độ bước mau khi nhìn lại thấy mình vượt ông Khương hơn nửa mét. Đạt nghiêng cổ hơi lệch ra sau nói:

            - Có lẽ, người ta đang dừng chân mua hoa ở đằng kia, phải không bác?

            Ông Khương nín thinh trong mấy giây, nhìn chòng chọc về phiá trước như để xác định vị trí, rồi nói:

            - Đúng rồi đó, cháu.

            Gần đến nơi, tốp người ấy đã đi gần hết, chỉ còn lại hai người đang còn đứng khi Đạt vừa tới, họ đi nốt. Đạt dừng lại, quay ra sau chào tạm biệt ông Khương:

            - Chào bác Khương, bác đi trước, cháu còn phải dừng lại đây mua hoa, sẽ gặp bác trên chùa.

            - Ừ, cháu ở đó mua hoa rồi đi sau.

            Mua hoa gần giống như đi ăn cỗ. Ăn cỗ, đến sau, người ngồi trước ăn hết các thức ngon. Mua hoa, đến muộn, chỉ còn hoa héo, hoa dập, gãy cánh, hoa xấu...

            Đạt đứng nhìn chăm chú vào thúng hoa, không thấy một hoa sen trắng nào, chỉ còn một ít sen hồng được xếp nằm thứ tự trong thúng.

            Thấy Đạt, bà bán hoa nhìn lên, rồi nhìn xuống hai bàn tay đang đếm tiền, miệng mời lia lịa:

            - Mời cậu mua hoa, hoa mới hái, tươi lắm, còn bấy nhiêu, để vốn cho cậu.

            Sau tiếng rao mời của bà bán hoa, Đạt hỏi:

            - Chị không bán hoa sen trắng?

            - Có chứ nhưng, mà bán hết cả rồi, rất tiếc! Cậu mua hoa sen hồng đi! Sen hồng không kém gì sen trắng, tôi bán rẻ hết chỗ này cho, đi đâu cũng vậy thôi, mấy hàng bên cạnh không chỗ nào còn hoa trắng đâu!

            Đạt dư biết về tâm lý của người bán, nên chào bà bán hàng đầu tiên để đi chỗ khác tìm cho bằng được sen trắng. Đạt bước qua hàng kế bên, quan sát vào hai thúng hoa, thúng nào cũng lưng và chỉ còn sen hồng. Đạt ngồi xuống như có sự quyết định mua sen hồng, đưa tay cầm lên từng đóa hoa, trong khi cậu con trai bán hoa ngồi nín thinh, tay cầm tạp chí Điện Ảnh, mắt nhìn vào, tay lật từng trang xem hình, cứ để cho khách tự nhiên lựa chọn, không mời.

            Đạt để riêng vài đóa hoa lên miệng thúng, Đạt hỏi:

            - Nè chú em, hoa chỉ nội đây thôi à, còn đâu nữa không?

            Cậu bán hoa vội xếp tập san Điện Ảnh bỏ lên đầu cây đòn gánh đang lót ngồi, trả lời:

            - Em chỉ có sen hồng không thôi, một ít sen trắng em đã bán hết từ lúc sáng. Anh muốn mua sen trắng hả? Hình như bên chị Hà còn, anh qua bên ấy xem thử còn không.

            Đạt lấy những đóa hoa trên miệng thúng, bỏ lại vào trong, đứng dậy, nhìn vào thúng trong yên lặng như có vẻ luyến tiếc rồi quay lui đặt niềm hy vọng ở hàng kế bên. Đạt nói cảm ơn với cậu con trai, chàng bước qua hàng cô gái bên cạnh.

            Hình như cô ấy biết ý của Đạt muốn mua hoa sen trắng, và đã qua hai nơi có hoa sen hồng mà chàng lại qua mình, nên Đạt vừa đến, nàng đưa lời ngọt ngào mời khách:

            - Em chào anh, còn một ít hoa sen trắng, anh mua, em để vốn cho?

            - Đã là buôn bán, là phải có lời, chứ sao lại bán vốn?

            - Thật mà, em nói thật! Ai thì khác, chứ còn anh, em nói thật đấy!

            - Thật vậy không? Tôi tin cô.

            - Không thật sao được, vì chỉ còn duy nhất một bó, nên bán cho xong, để còn về đi chùa mà!

            Đạt ngồi xuống, cầm bó hoa lên, đưa tay trái vạch lá sen, đếm bằng con mắt. Xong, để nhẹ bó hoa nghiêng lên vành thúng, nói:

            - Công nhận hoa của cô, được buộc thành bó, dễ cầm trên tay. Vậy một bó này giá bao nhiêu, hả cô?

            - Dạ, mười đồng một bó, tức là vị chi mỗi đóa một đồng. Hoa trắng hiếm lắm, nên từ lúc sáng đến giờ chỉ có mình em là bán hoa trắng thôi. Hên cho anh là được còn một bó đấy!

            Nghe mười đồng một bó, Đạt cầm bó hoa lên, để nhẹ xuống trong do dự: nên mua lẻ, mà mua lẻ, không biết cô ấy có chịu bán không! Mua hết thì không đủ tiền! Phải chi còn đủ mười đồng mua nguyên bó hay biết mấy, đằng này trong túi chỉ còn bảy đồng, khổ thật! Như để kiểm soát lại cho chắc còn đúng bảy đồng hay không, Đạt đưa tay ra túi sau lấy cái ví, vạch ngăn đựng tiền, nhìn vào rồi bỏ lại túi sau, ngồi im, mím môi, đưa mắt nhìn bó hoa.

            Thấy Đạt đang ở trong trạng thái đắn đo, nàng đưa mắt nhìn sâu vào mặt Đạt, nói:

            - Sao, anh thấy thế nào, mua được không, hoa còn tươi đấy!

            - Được rồi, tôi sẽ mua nhưng ... cô có bán lẻ không?

            - Sao anh không mua hết trọn bó, mà mua lẻ? Em không thể bán lẻ được, vì mẹ em đã có dặn là bán nguyên bó. Vì thế mà bà đã bó sẵn từng bó một như thể gián tiếp bảo em phải bán nguyên, đừng bán lẻ. Do vậy, lỡ ra không ai mua số hoa lẻ còn lại, phải mang về, em sẽ bị mẹ em trách mắng. Thà rằng còn lại bó nguyên hơn là lẻ!

            Sau lời trình bày của cô bán hoa, Đạt nói:

            - Thưa cô, cô thông cảm cho tôi, vì trong túi tôi bây giờ duy nhất chỉ còn những bảy đồng. Vậy cô không bán lẻ, tôi cũng không mua. Qua những điều cô nói như vậy, thà rằng không có hoa cúng Phật lần này, còn lần khác, chứ để cho cô chuốc lấy sự trách mắng, sự phiền muộn, khổ não, tôi sẽ mang tội. Thội, xin chào cô!

            Đạt vừa bước đi mới hai bước, cô bán hoa gọi lớn:

            - Nè, anh kia, khoan hãy đi, quay lui, em nói cái này cho nghe.

            Nghe có tiếng gọi của cô bán hoa, Đạt trở lui, tươi cười nói nhẹ:

            - Cô này, đã không chịu bán, còn gọi tới, gọi lui, rắc rối thế!

            - Ừa, bây giờ em bán, em bán hết nguyên bó cho anh.

            Nghe cô bán hoa nói bán hết nguyên bó, Đạt vội nói liền:

            - Cô nói không bán lẻ, sao còn nói bán nguyên bó?

            - Không, em bán cho anh bảy hoa thôi. Còn nói nguyên bó, có nghiã là em gửi ba đóa vào đấy để nhờ anh dâng lên vái cúng Phật dùm em.

            Nghe đến lời gửi gắm, Đạt bằng lòng chấp nhận ngay, chấp nhận để được việc, chứ từ chối, lỡ ra cô ấy đổi ý thì hỏng. Nhưng liền tư duy trong lòng: gởi hoa thì dễ, cứ việc cắm lên độc bình ở bàn Phật, còn gởi lời nhờ vái dùm lên đức Phật, thật là khó! Nên, trước khi từ giã cô bán hoa, Đạt tươi cười nói:

            - Sao cô không trực tiếp đem hoa lên chùa cúng Phật, lại nhờ tôi cúng dùm, vái dùm? Gởi hoa thì dễ, chứ gởi lời, khó lắm! Cô biết không, vì lời lẽ thường tỏ bày trước đối tượng để diễn đạt tâm tư, tình cảm cho ai đó bằng ngôn từ có âm thanh và không có âm thanh. Không có âm thanh là tiếng nói của tâm thức, mà đối tượng của nó chính là hình tượng chư Phật và Bồ Tát. Lời nói của tâm thức trước Phật và Bồ Tát phải chăng là lời: thệ nguyện, van xin, cầu khẩn, mong ước, nguyện cầu, hạnh nguyện, phát lời sám hối... Ai là người nghe rõ tiếng nói không lời đó? Chắc chắn mọi người đều cùng nói: đức Phật. Như vậy, khi ta thầm cầu nguyện, ta nhìn lên đức Phật, ta có thấy đức Phật gật đầu không? Rõ ràng, ta không thấy đức Phật gật đầu nói gì. Từ đó, ngoài ta ra, không có ai nghe lòng ta khấn vái điều gì, ta chỉ nghe ta, ta chỉ biết lòng ta mà thôi.

            Tự nghe, tự biết chính là Phật biết, vì Phật có trong lòng ta khi tâm ta thanh tịnh vắng lặng. Còn tiếng nói có âm thanh vang dội cũng là phát xuất từ tâm thức bên trong, nên chỉ có đối tượng có hình tướng sống động mới nghe thôi. Vì vậy, nói về tâm, không ai giống ai và các sở nguyện, mong cầu, van vái cũng thế. Do vậy, tôi không thể vái cúng dùm cô được, vì tôi vái chỉ có mình tôi nghe lời ấy. Vậy, xin mời cô lên chùa cúng vái sau, còn tôi chỉ mang dùm hoa cho cô, cắm lên độc bình bàn Phật.

            Cô bán hoa ngồi im nghe Đạt nói, thỉnh thoảng cô gật đầu, nhìn chòng chọc vào mặt Đạt, đôi môi khép kín, có lúc mỉm cười theo cái gật đầu. Đạt vừa dứt tiếng, nàng đứng dậy, bước ra lề đướng, cũng vừa lúc Đạt xoay người như sắp từ giã, nàng đứng bên Đạt, nói:

            - Theo chỗ ít học của em, sau khi nghe anh nói về “tiếng nói bên trong của tâm thức” trước đối tượng bất động, lời nói ấy chỉ có mình ta nghe. Như vậy, cho em xin rút lại lời gởi gắm. Vì lời gởi gấm ấy đã được đối tượng sống động nghe và chứng giám rồi, và cũng được đức Phật chứng tri rồi! Đố anh đối tượng sống động là ai?

            - Không biết.

            - Chính là anh chứ còn ai! Và đức Phật chứng tri, đố anh Phật ở đâu?

            - Cũng không biết luôn.

            Nàng quay mặt chỗ khác, liếm môi, tươi cười, rồi quay lại nói:

            - Phật đó chính là lòng em, vì khi lòng em chớm nở ý niệm muốn dâng hoa cúng Phật, từ lúc em gọi anh quay lui để bán và gởi hoa kià! Và từ đó em cũng thấy được đức Phật sống động nghe và nhận lấy bó hoa của em rồi. Đức Phật đó chính là anh.

            - Chính là tôi? Đạt hỏi vặn.

            - Vâng, chính là anh.

            - Xin cảm ơn cô, tôi không dám nhận, đừng nói đùa, tội nghiệp cho tôi!

            - Anh không nhận là quyền của anh, còn em nói là quyền của em. Vì mỗi chúng sanh là Phật sẽ thành. Rõ thực, nhìn anh, em thấy anh là một đức Phật thực thể hiện hữu qua cung cách chứa đựng đức tính: từ bi, trí tuệ, khiêm cung, ái ngữ. Một đức Phật thực chất hiện hữu: có biết, biết mình, biết ta, rất là tình người, không phải như Phật tượng trên bàn. Từ chỗ đó, một chúng sanh ngu muội, Phật tánh chưa hiện ra, được một chúng sanh Phật tánh đã và đang hiện ra chỉ bày cho giáopháp tu tập hay là do đức Phật trên bàn? Như vậy, anh là đối tượng sống động, nên em cảm thấy anh đã chứng giám tiếng nói có âm thanh của em rồi, đúng như anh vừa nói rằng: hình tượng sống động là đối tượng được nghe âm thanh sống động. Do vậy, tiếng nói và bó hoa của em đã được thông qua nơi anh, dù anh không nhận dùm lời van vái lên đức Phật trên bàn, anh vẫn là một hình tượng sống động.

            Đạt đổi bó hoa sang cánh tay trái, tay phải ôm chặt phần dưới bó hoa, miệng tươi cười:

            - Cô học giáo lý nhà Phật hồi nào mà nói thông thạo, rành rỏi thế?

            - Em không học ở đâu cả, em chỉ học sách Phật pháp có sẵn tại nhà do ba em mỗi khi đi chùa thỉnh về. À từ nãy đến giờ em chưa biết qúy danh của anh, xin anh cho biết qúy danh?

            - Tên tôi là Đạt, gọi cho đủ là Lê Tất Đạt. Còn cô, xin cho biết qúy danh luôn?

            - Em tên là Nguyễn Thị Hà. Thưa anh, người ta thường nói tên có ảnh hưởng đến người, phải không anh? Vì em thấy một số bạn em trên đường đời, thất bại cũng nhiều mà thành công không kém. Còn về tánh nết, có đứa hiền và dữ đều do ảnh hưởng cái tên. Ngay cả em, mới chừng tuổi này, năm nay em hai mươi lăm, mà sao em thấy cuộc đời của em trầm lặng như là một dòng sông. Dòng sông có sương mai giá lạnh, có men chiều bao phủ! Tại sao ba em không đặt cho em những tên như: Hoa, Diệp, Trúc, Vân, mà lại đặt tên Hà! Tên anh đẹp lắm! Chắc là trên đường đạo anh đạt nhiều sự hiểu biết rộng lớn?

            - Cô lại thêm nghề chấm tử vi nữa rồi! Vấn đề tên ảnh hưởng đến người, thưa cô, tôi không rõ lắm. Tuy nhiên, ở lãnh vực Phật giáo, theo sự hiểu biết chút chút của tôi như thế này: sự nghiệp được giàu sang hay bần cùng, được có chức có quyền hay là một phó thường dân của một con người trong đời sống thực tại, kể cả tấm thân và sắc diện hiện hữu đều do qủa báo nghiệp của qúa khứ ở kiếp trước. Nghiệp nhân của qúa khứ là cái nhân thành qủa của hiện tại. Đó là một định luật “nhân quả”.  Xin lỗi cô, cho tôi nói hơi giáo lý Phật giáo một chút!

            - Vâng, anh cứ nói tự nhiên, em thích nghe giáo lý lắm.

            - Thưa cô, muốn biết cái nhân kiếp trước, hãy nhìn cái quả hiện tại và, muốn biết cái quả ở tương lai, hãy nhìn cái nhân hiện tại. Đó là định luật nhân quả. Khi con người suy nghĩ việc gì ở trong tâm, sau đó thân liền tạo tác ra hành động thiện hay ác, đó là nghiệp nhân. Hành động ở việc làm được kết quả ra sao, đó là nghiệp quả. Tin nhân quả là một điều tất yếu đối với những ai đang học Phật để tu tập, chọn cho mình con đường giải thoát. Cho nên, định luật nhân quả là mũi tên chỉ rõ con đường chánh  đạo, và cũng là một bài giáo khoa dạy cho những người Phật tử phá trừ mê tín xin xăm, bói quẻ. Do đó, tên không ảnh hưởng gì đến thân tâm con người.

            Đạt mới vừa ngưng nói một giây trong tư thế còn tiếp, Hà chen lời:

-Anh nói đúng, tên không ảnh hưởng gì đến người, nó chỉ là một giả danh, cũng như thân thể của con người chỉ là một hợp chất giả tạo do vô số lượng nguyên tử sống hợp lại theo định lý duyên khởi. Điều quan trọng là do tâm chứ không phải do tên và thân con người. Em được ba em giảng cho nghe về chữ đẹp, xấu thuộc lãnh vực con người. Em nhớ ba em nói: “tên đẹp, người đẹp không bằng tâm tốt. Tên xấu, cơ thể người xấu, mà tâm tốt mới là đáng giá. Tên là một giả danh. Còn xác thịt con người: to lớn, béo mập, cao ráo, lùn tịt, đen, trắng, giai do bởi sinh lý vật thể ở thức ăn, ở tinh khí cha mẹ, ở môi trường sống như thế nào. Từ đó, chẳng hạn một đứa bé trai hay gái, được sanh ra và lớn lên, cơ thể lùn và đen lại được đặt cho cái tên là Xí. Tên Xí từ lúc nhỏ và lớn lên, sống trong xã hội, chỉ có một tên Xí. Tên xấu, cơ thể xấu nhưng sự nghiệp là một giám đốc cơ sở vật chất vì có văn bằng kỹ sư. Trong xã hội được mọi người kính mến bởi có đức tính biết thương mọi người, có tấm lòng cao thượng không vị kỷ, luôn luôn xả bỏ, hy sinh thời gian của mình trong việc đại sự giúp đỡ xây dựng cơ sở tình thương bằng vật chất cho các cô nhi… Với Đạo Pháp, là một Phật tử thuần thành biết tôn kính Tam Bảo. Như vậy, tên Xí đâu có gì xấu! Trong khi đó có những con người có đến hai ba tên, cuộc sống của họ từ nhỏ đến lớn cơ thể to béo, mặt mày không sứt mẻ, tên của họ rất là đẹp. Chẳng hạn những tên Ngô Đình Diệm, Ngơ Đình Thục, Ngô Đình Nhu,Ngơ Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân, Ngơ Đình Luyện,Nguyễn văn Thiệu,Nhưng họ đã trở thành những tên sát nhân bán nước, tâm của họ rất là tàn bạo, tâm của họ chứa nhiều con dao, nên đã và đang gây ra cho dân tộc Việt Nam chết chóc và đói khát, nghèo khó… Ba em nói đa số những bạo quyền, bạo chúa nào cũng có tên đẹp. Tên đẹp mà tâm họ không đẹp. Trong xã hội này, ở lãnh vực nào cũng có những người tên đẹp, người đẹp nhưng tâm rất xấu. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có người tên đẹp, người đẹp và tâm cũng đẹp nữa. Những hạng người này rất là ít. Ngay cả trong Phật giáo, có người được thầy đặt cho một pháp danh rất là đẹp. Chẳng hạn người có pháp danh Chơn Đại Đăng, mà không thấy tâm họ sáng tí nào. Vì đối diện trước mọi người, mặt thì váo vênh có vẻ tự mãn về sự nghiệp tu hành rởm của mình. Nói đạo lý chẳng trúng vào đâu. Về bố thí cúng dường, luôn sanh khởi ý niệm chỉ cúng cho đại Thiền Sư. Còn không phải Thiền Sư và kẻ nghèo khổ đều đặt ra ngoài hành lang trí óc. Rốt cuộc cả cuộc đời chưa có ngọn đèn trí tuệ làm hành trang giải thoát.

Hà ngưng giọng, nhìn Đạt trong vài giây, nàng nói tiếp:

-Nãy giờ, em làm mất thì giờ của anh nhiều lắm, phải không?

Nghe Hà nói “làm mất thì giờ”, Đạt hiểu ngay Hà muốn cho mình đi chùa kẻo trễ, Đạt nhìn đồng hồ:

-Thôi nhé, xin phép cô, tôi phải đi ngay bây giờ, cảm ơn cô đã bán cho tôi những đóa hoa sen trắng, tươi.

-Dạ không có chi, xin chào anh, kính chúc anh thượng lộ bình an, thân tâm an lạc, Phật sự viên thành.

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BA

 

H

à nhìn theo Đạt, khi bóng chàng vừa khuất sau hàng dừa nước ở đoạn đường cong nơi có con rạch nhỏ. Nàng quay lui, vào chỗ cũ, đôi chân đang bước, mặt ngoảnh lui nhìn lại lần nữa.

Đến nơi, Hà ngồi xuống bên cái thúng không, chỉ còn những lá sen nằm gọn dưới đáy. Nàng nhìn thẫn thờ vào nó như có vẻ tìm một đóa hoa đã mất. Nàng đưa tay gom hết những lá sen, rồi vất ngay lên bãi cỏ trước mặt một cách vô tư trong thầm lặng. Rồi đứng lên, nghiêng cổ, đưa bàn tay phải ra sau vén hết tóc ra trước, cúi xuống lấy chiếc nón lá đội lên và cái thúng không được kẹp vào nách phải, bước xuống bờ đê thoai thoải được nối tiếp với con đường bờ ruộng. Con đường bờ ruộng đối với Hà rất quen thuộc. Quen đến nỗi nàng nhớ rõ trong lúc đi sắp đến đoạn nào có con mương nước chảy qua cái cống, đoạn nào có những cây cói đang trổ hoa vào mùa hạ… Nhưng hôm nay nàng đã quên lửng, khi sực tỉnh thấy mình gần đến nhà. Đôi chân nàng bước trong khấp khểnh cái bước trong vô định, chan hòa cùng từng phiến cô đơn đang rơi rụng trước mặt. Không gian và ý tưởng như thể đã đồng tình với nhau làm nên cô đơn. Cô đơn của một hố thẳm có chứa đầy niềm vui mới lạ. Cô đơn đã làm cho đôi mắt nàng trở nên yếu đuối như đi qua một sa mạc vào trưa hè, nên đôi mắt phải khép hờ hướng về không gian bao la phía trước. Trong khi trước mặt nàng là một vùng không gian xanh biếc nhưng, nàng đang bỏ quên nó ở cặp mắt có cái nhìn lững lờ với đôi mi chậm nháy.

Vừa đến hơn nửa con đường lát gạch từ ngõ vào nhà, Hà thấy mẹ nàng, bà Thông đang ngồi cắm vào độc bình mấy đóa hoa Vạn Thọ nơi vại nước bên gốc cây mận, nàng tạt vào, đứng bên nhìn, nói:

-Ba đâu, không làm mấy việc này, mẹ lại làm?

-Bà Thông ngưng tay, nhìn Hà:

-Hoa lá ra sao, giờ này con đã về?

-Bán hết thì về, ở lại làm gì mẹ! Nếu mà có thêm hoa sen trắng nhiều hơn bằng đấy, giờ này cũng về, vì ai cũng thích mua hoa sen trắng cả.

Bà Thông lấy cành này ra, bỏ cành khác vào, rồi đưa bình lên trước mặt, ngắm nghía:

-Hôm nay ngày Phật Đản, cắt một ít bông vạn thọ cúng Phật, ba mày ổng đi chùa với bác Nguyên Thần, thành ra tao phải lo hoa quả trên bàn Phật tại nhà.

Bà Thông nói chưa dứt, Hà đi thẳng vào nhà bếp, cất thúng lên gác tre, úp nón trên vách. Rồi đi ra vại nước, lấy gáo múc nước vào thau. Hà vừa lau nhẹ lên đôi má bằng chiếc khăn cô-tông nhỏ màu hồng có thấm nước, nàng liền cất tiếng hỏi bà Thông:

-Ba đi với bác Nguyên Thần, đi bằng gì mà sao xe còn ở nhà vậy, mẹ?

Bà Thông đang nghiêng nồi chắt sạch nước vo đậu xuống sàn gỗ. Tiếng nước chảy róc rách nho nhỏ dưới sàn làm cho bà dường như không để ý đến câu hỏi của Hà, nên bà tiếp tục vo, và đổ nước vào nồi, bưng vào bếp. Bà trở ra, đến đống củi, cũng vừa lúc Hà đang phơi khăn lên dây thép gần đó. Nhìn Hà bà nói:

-Nghe nói tại chùa Phật Đà ở chi hội quận Phong Lan, năm nay có Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam từ trung ương về tổ chức Lễ Phật Đản lớn lắm! Có cả xe hoa diễn hành trên đường phố thị trấn. Do vậy, ba mày và bác Nguyên Thần đã bàn nhau từ mấy ngày qua, nên chi, sáng nay bác Nguyên Thần đi xe Honda đến đây, rồi hai ông chở nhau đi.

Sau đó Hà đi vào nhà trong. Một hồi lâu, nàng cầm chiếc áo dài màu xanh đồng nội từ nhà trên xuống bếp, đứng bên bà Thông nhờ góp ý khi bà đang xếp thanh củi trong lò, chồng lên nhau để cho ngọn lửa dễ cháy bùng, Hà hỏi:

-Mẹ, hai nhóc con, cắm trại ngoài trời mà sao con Minh và thằng Khánh không đứa nào đem theo áo gió, nhỡ ra đến khuya trời lạnh thì sao! Con thấy hai đứa soạn ra từ chiều thứ sáu hôm kia, không mang đi, bỏ lại trên giường. Còn áo dài làm và huy hiệu hoa sen trắng của con Minh cũng vậy, không mang đi! Gia đình Phật tử không đeo huy hiệu sen trắng, chứ đeo cái gì?

-Tao nghe mấy đứa nó nói với nhau khi bỏ đồ vào ba lô là: cắm trại vào mùa hè, ai mà mặc áo gió, nên con Minh bảo thằng Khánh bỏ lại hết. Còn áo dài, nghe con Minh nó nói là nó phụ trách nấu ăn cho đội và giữ trật tự. Chỉ có những đứa phụ trách dâng hoa, múa đèn mới mặc và đeo huy hiệu thôi, nên chi nó bỏ lại đó.

Hà chờ bà Thông nói xong, nàng hỏi tiếp:

-Đi lễ chùa, mặc áo dài màu này được không mẹ?

Bà Thông bỏ ống thổi lửa xuống, đưa tay dụi mắt, nhìn vào chiếc áo:

-Màu gì mà chẳng được, miễn là áo dài. Ở thành thị, nhiều bà đi lễ chùa mặc cả váy đầm. Nhưng mà, đó là những bà chưa phải là Phật tử chánh tông, hoặc là có bà vì mập, không có eo, nên chi mặc váy cho thong thả.

Hà rủ chiếc áo thẳng xuống trước mặt mẹ, nhìn bà Thông xin góp ý:

-Mẹ, màu này có tối lắm không? Hay là con mặc quần tây, áo ngắn, để đi Honda cho dễ.

Bà Thông quay vào lò, đẩy củi đang cháy cho vào giữa, bà quay ra:

-Theo mẹ, con nên mặc áo dài. Đi xe đạp, mới sợ vạt áo dài dính vào căm xe, chứ còn Honda mấy khi mà bị gì!

-Theo ý mẹ, con sẽ mặc áo dài. Hà đáp lại ý bà Thông.

Hà đi lên nhà trên. Sau khi trang điểm và phục sức, nàng đứng trước tủ gương, lắc cổ qua, lại xem có được thong thả không. Rồi thò hai tay xuống hông kéo áo hai bên ra, lắc người để cho đúng eo, rồi xoay lưng vào gương, nghiêng đầu ra sau, nhìn vào gương hai ba lần, bên phải, bên trái. Nàng qua tủ bàn phấn, lấy cây lược, tiếp tục đứng trước gương, cúi đầu, đưa bàn tay phải kéo trọn hết mái tóc sau ra trước nằm trên ngực ở vai phải. Lại nghiêng đầu bên trái, đưa lược chải nhẹ từ trên xuống đuôi tóc. Rồi nàng ngước lên, nghển cổ ra sau, bàn tay phải bỏ lại mái tóc ra sau lưng, lắc người qua lại để cho mái tóc được phủ kín bờ vai. Nàng đến giường, chọn đôi giày gót không cao, đế bằng phẳng. Đôi giày kiểu sabô, nàng đã mua hơn cả năm rồi, chỉ mới mang một lần vào dịp Tết, nay mới mang lại. Đang chùi đôi giày, bỗng bà Thông từ dưới bếp lên, đi vào, bà chép miệng khen con gái mình:

-Lâu lắm, mẹ mới thấy con trang điểm! Đứng dậy cho mẹ xem nào!

Hà liền đứng dậy, xỏ chân vào đôi giày, nàng xoay sau, rồi quay mặt lại, nhìn mẹ cười, nói:

-Áo dài màu xanh, giày màu đen, có xứng hợp không, mẹ?

Bà Thông cười, phụ họa thêm:

-Con gái nửa quê, nửa thị, ăn mặc như vậy, đẹp ra phết, chả chê vào đâu. Nhưng mà, nè! Sao hôm nay, con trang điểm kỹ thế, mọi khi có thấy đâu nà?

Nghe mẹ nói mình trang điểm kỹ, Hà quay mặt chỗ khác, hình bóng Đạt liền xuất hiện trong tâm thức nàng rõ nét một cách mãnh liệt hơn lúc nào hết. Nàng cảm thấy e thẹn, mặc dù chỉ là hình bóng nhưng, nàng tự cảm thấy nó như là một thực thể sống động, do vậy thân tâm nàng hơi có một chút rung động như thể đối diện trước Đạt. Như thế, phải chăng tình yêu là một pháp có hình tướng! Cả hai thực thể hiện hữu và trong tâm đều làm cho con người khổ đau và hạnh phúc. Dù mơ hay là thực, chỉ là một tia chớp trong một trận mưa rào, hay là một vì sao xẹt trong đêm!

Hà quay lại trước mặt mẹ nàng, đôi môi mím chặt, hai má nàng trở nên ửng hồng lên màu phấn.

Nàng nhìn xuống đôi giày, nhón gót quay lui, nàng bào chữa:

-Sáng nào mà con chẳng cọ quẹt một chút trước khi ra chợ bán hàng, dù là cái sạp tạp hóa nho nhỏ ở chợ xã, nó cũng có tai, mắt của cuộc đời, chứ mẹ! Còn đến các nơi hội hè, đình đám, con phải trang điểm kỹ, con gái mà mẹ!

Nói xong, nàng đi xuống nhà bếp, đến chiếc xe Honda hai bánh đang dựng đứng bên vách, bỏ ví vào giỏ lưới baga bằng thép ở trước, tay trái nắm chặt ghi đông trái, tay phải bợ dưới đít yên xe, nàng khom người tới trước, lấy sức bình sinh, đẩy chiếc xe trườn tới, làm cho hai chân chống sập xuống, ngả ra sau. Nàng dắt xe ra sân qua bệ cửa có lót miếng gỗ xuôi chiều một cách chầm chậm. Nàng cho xe nổ máy, ngồi lên yên, tư thế sẵn sàng để vọt ra ngõ. Bà Thông nhìn Hà với nét mặt vui tươi và đôi môi nói những gì không nghe rõ giữa tiếng máy xe đang nổ giòn. Hà nhìn qua bà Thông:

-Thưa mẹ, con đi!

Nàng rú ga sau tiếng chào, xe liền vọt ra đầu ngõ, quẹo trái, để lại làn khói xanh mỏng lảo đảo trong không gian.

Bà Thông đứng nhìn theo Hà, miệng lẩm bẩm:

-Con gái chừng ấy tuổi hỏng chịu lấy chồng, không biết nó đợi chờ chàng trai nào, sợ trái bom nổ chậm đó! Nhưng mà, bom không có ngòi, làm sao mà có chuyện nổ chậm với mau, bom nào cũng thế! Con gái nhà này sẽ không bao giờ có trái bom ấy, hy vọng vậy!

Còn những đến mười thước nữa mới tới cổng Tam quan, đã có mấy em đoàn sinh GĐPT ngành thiếu đứng đón khách để chỉ đường cho khách vào lễ đài bên trong.

Cậu trai đeo băng vàng bên cánh tay phải, tiến gần bên đầu xe, tươi cười nói với Hà:

-Thưa chị, xin chị dắt bộ xe, đi vào cổng bên hông cửa Tam quan, vào đó sẽ có người chỉ chỗ cho chị để xe. Hà dắt xe qua khỏi cổng phụ. Minh cũng từ trong đi ra. Thấy Hà, Minh nghiêm nét mặt, đến sát bên, không nói gì. Trong khoảnh khắc vài giây, không chờ Minh hỏi, Hà liền cất tiếng:

-Mặt mày sao mà bí sị vậy, bộ mày mệt hay là đói bụng?

Minh bậm môi, liếc mắt nhìn ra cửa Tam quan, rồi nhìn Hà:

-Bà làm gì, giờ này bà mới tới?

-Giời ơi! Tao phải bán hết hoa đã chứ! Còn phải về nhà, sửa soạn, rồi mới đi. Nè, em đem cất hộ xe giùm chị.

Chỉ chỗ để xe đạp, xe gắn máy là trách nhiệm của Minh ở bên trong, nên liềen khi đó, Minh choàng hai tay nắm chặt ghi đông xe, cùng lúc Hà buông tay bước lui, tới trước xe, lấy cái ví, mang vào vai bảo Minh:

-Nhớ khóa xe kỹ, nghe em!

Minh nhìn Hà, nguýt nhẹ cùng tiếng nói:

-Chị hai, trông bà hôm nay, sao có vẻ lúng túng giống như gà mắc đẻ vậy?

Hà cười mím như để che giấu tâm tư mình qua sự phát hiện của Minh về nội thức của mình, nàng bào chữa:

-Mày nói bậy, vì đi trễ, tao cứ sợ là không kịp lễ, chứ có gì đâu! Mà trễ thật! Thầy đang đọc thông điệp kìa!

Hà đi bước nhẹ giữa rừng người từ con đường bên hông Tam quan dẫn và nhà trù. Hà đi rón rén từng bước, lách qua trước mặt, sau lưng mọi người để vòng ra sau bếp, tới trước sân nhà tăng phía đông. Hà dừng chân, đứng dưới gốc cây Bồ Đề. Những người đứng cùng vị trí với nàng, toàn là người đến sau, không thể vào vị trí trước lễ đài. Ngoại trừ, nếu có quan khách được mời, còn bằng không, muốn đứng đâu thì đứng. Nên có người đứng cả hai bên hông nhà tổ, sân nhà tăng, trước cổng Tam quan và cả bên hông nhà trù (nhà bếp).

Đứng bất cứ nơi đâu, mọi người đều được nghe rõ âm thanh phát ra từ các loa chung quanh. Âm thanh, tiếng nói của đối tượng, nó có năng lực quyến rủ, réo gọi, sai khiến tâm con người sanh khởi ý niệm làm nhân để rồi thể hiện ra ngoài thân các trạng thái: trầm lặng, yên tĩnh hay khua động, nhảy múa… Ở đây, mọi người đang an trú thân tâm nơi một đạo tràng thanh tịnh đúng nghĩa: “tất cả nơi nào trong không gian đều là đạo tràng”. Nên không cần đứng trước lễ đài, chỉ cần âm thanh ở cái loa trên cây Bồ Đề, dưới mái hiên nhà bếp… cũng đủ làm cho thân tâm con người đứng ở đó an trú vào tĩnh lặng khi nghe những pháp âm huyền diệu, thân tâm họ được đồng dạng với những người ngồi trước lễ đài. Hà đứng yên như pho tượng thần nữ gần tiếng đồng hồ. Nhưng pho tượng thần nữ biết hướng về Phật đài có đức Bổn Sư sơ sanh, tai nghe thông điệp Phật Đản của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, lời huấn từ, miệng tùng bài khánh đản v.v… vừa dứt câu “đệ tử và chúng sanh đều trọn thành Phật đạo”. Hà cúi lưng xá ba xá, tìm lối đi lui.

Hà đi giữa những khuôn mặt hân hoan, những âm thanh chúc tụng, chào hỏi, mời mọc, cười, nói, tiếng còi gọi đàn của GĐPT, tiếng chuông đại hồng chung, tiếng nhạc khánh đản hòa điệu với nhau.

Tất cả hình tướng và âm thanh đó, đối với Hà chỉ dửng dưng, chìm lặn trong không gian khi tâm thức của nàng đang tư duy về đối tượng. Nếu không nói là thời gian của khái niệm đang gặm nhấm, cắt xén, vây bủa tâm thức của nàng trên hành trình chuẩn bị tư thế gặp gỡ đối tượng hiện hữu nhưng, đang còn trong ý thức.

Nàng đi ra phía sau lưng nhà tổ để qua bên trái lễ đài ở trước mặt chùa. Nàng đi như thể đi tìm một sự may mắn nào đó trong tình cờ. Biết đâu chỗ đứng mới có thể là niềm hy vọng bắt gặp Đạt. Vì khu vực đông người này, nàng chưa biết Đạt ở đâu. Nàng tạt vào núp nắng dưới bóng râm cây nhãn, tay cầm tờ chương trình hành lễ, quạt phe phẩy ngang mang tai, mắt nhìn về phía lễ đài, ngắm quang cảnh tôn nghiêm, rực rỡ dưới ánh nắng tháng tư đầu mùa hạ. Bất chợt thấy Đạt từ bên kia bục gỗ bước lên lễ đài trong chiếc áo dài lam lùng thùng, với dáng uy nghi, bước chậm trước bàn Phật trong trạng thái hơi khom người về phía trước do tâm chỉ đạo cho thân thể hiện hành động tôn kính dâng lên đức Phật mà cha ông bao đời từ trước đã để lại. Chứ không phải như cái khom lưng lòn cúi của những kẻ đem bán rẻ đạo nguồn của cha ông để lại trước bạo quyền của thời Ngô để đổi lấy và lòng một tôn giáo đầy quyền lực và tiền của, nhằm mục đích được thăng hoa tiến chức.

Hà theo dõi từng cử chỉ của Đạt: cầm cây kéo cắt bớt tim đèn đang cháy để không cho ngọn đèn cao liếm sáp làm sáp nhỏ giọt xuống bàn, đưa tay vào lư hương lấy ra những cây nhang đang cháy lan vào thân cây khác, cắm vào chỗ trống, rồi đứng một bên, đưa mắt nhìn bao quát nơi lễ đài.

Nàng cảm thấy mình như đang bị những cặp mắt tinh ý của mọi người chung quanh nhìn thấy trạng thái ngẩn ngơ, đợi chơ hướng đến mục tiêu lễ đài. Hà liền tạo cơ hội để vượt thoát khỏi màng lưới quan sát ấy bằng cách lân la đến nơi hai đứa trẻ đang cãi nhau gần đó. Hà đưa ngón tay trỏ lên giữa đôi môi, suỵt:

-Nè, hai em đừng cãi nhau, đến chùa cãi nhau là không được! Hai em ở đâu?

Thằng con trai tuổi chừng mười lăm, cao hơn thằng kia một cái đầu thưa:

-Thưa cô, chúng em ở gần đây.

Nghe thằng bé nói ở gần đây, ý tưởng nàng nảy sinh điều thắc mắc về đời sống tâm linh của chúng là ở gần chùa mà sao không gia nhập đoàn sinh GĐPT? Vì toàn dân ở hai huyện Sơn Khê và Phong Lan không theo một tôn giáo nào khác ngoài Phật giáo. Nàng điều tra:

-Các em ở gần đây, sao các em không gia nhập GĐPT?

Hai đứa nhìn nhau, nhìn Hà, rồi nhìn nơi khác trong im lặng vài giây. Thằng lớn buột miệng:

-Thưa cô, tụi em là oanh vũ nam của GĐPT Lộc Uyển ở đây, nhưng em đã nghỉ sinh hoạt chừng vài tháng nay vì…

Như để khai thác lý do, Hà hỏi:

-Sao, lý do nào em nghỉ sinh hoạt, nói nghe?

Thằng bé lớn đứng nhìn xuống hai bàn chân đầy bụi đất trong đôi dép Nhật của nó với trạng thái ẹo mình, nghiêng cổ, nói:

-Vì em bị anh đội trưởng phạt hít đất nhiều lần, làm cho em đau ngực và mắc cỡ nên em nghỉ, dù ba mẹ em la rầy, em vẫn nhất quyết không đi. Còn thằng này nó bị bịnh nghỉ liên tục ba tuần, nên bị anh liên đoàn trưởng khai trừ khi trở lại đoàn.

-Chắc là em nghịch lắm?

-Có, nhưng ít thôi, còn lại là em đi trễ.

Hà quay lui, nhìn qua lễ đài để canh chừng, xem Đạt còn hay không. Thấy Đạt đang còn nói chuyện với các bác, Hà yên tâm, tiếp tục tư duy đến GĐPT: “Ở đâu và thời nào cũng vậy, vai trò của cấp chỉ huy, lãnh đạo đều phải có đạo đức, tấm lòng lân mẫn chiếu cố, tình thương trong đối đãi, sự hiểu biết rộng rải. Nhất là phải hiểu tâm lý của đối tượng dù là một đơn vị nhỏ ở lãnh vực quân đội, học sinh, hướng đạo, GĐPT… Người đội trưởng, liên đoàn trưởng phải hội đủ các yếu tố tự chỉ huy mình, sau mới chỉ huy người. Nói đến tự chỉ huy, Hà đã nhớ lại năm một chín bảy mươi, nhân cơ hội đi thăm bạn ở Đà Lạt, được bạn dẫn vào trường Võ Bị để tham dự buổi thuyết pháp của thầy Tuyên Úy tại hội trường Lê Lợi cho các Sinh Viên Sĩ Quan Phật tử và Sĩ Quan cơ hữu về đề tài: “TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY”. Câu đó là châm ngôn của Sinh Viên Sĩ Quan, được viết lên trước cổng quân trường. Thầy còn giảng thêm câu của đức Phật nói: “Thắng vạn quân chưa phải là thắng, tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”.

Ừ, lãnh vực GĐPT còn hơn thế nữa. Hơn về đức tính Bi, Trí, Dũng. Sở dĩ các em thường nghỉ sinh hoạt, từ bỏ đoàn, đi luôn và có đứa chất chứa trong lòng niềm thù hận là giai do các anh đội trưởng, liên đoàn trưởng bị thiếu ba đức tính Bi, Trí, Dũng, nên tư cách, tác phong thường thể hiện ra lời nói có âm thanh như cách chỉ huy của một nhà quân sự hay một đoàn trưởng thế tục, chứ không phải một huynh trưởng học Phật. Cho nên thỉnh thoảng có một vài cá nhân liên đoàn trưởng thường đứng nói trước đoàn, trông giống như một nhà chính trị.

Đang tư duy những điều ấy trong nội thức, Hà nghiêng đầu nhìn về lễ đài lần nữa. Lần này nàng thấy Đạt đang bước xuống bục gỗ. Hà đi vội ra ngay trước mặt Đạt để tạo sự giáp mặt trong tình cờ, do vậy Đạt vừa thấy Hà, chàng nhếch miệng cười, theo luôn bằng giọng chào hỏi ngạc nhiên:

-Ủa, đến bao giờ vậy? Có tham dự suốt buổi lễ không?

-Em đến lúc thầy đang đọc thông điệp Phật Đản của GHPGVNTN.

Không muốn cho không khí lạnh nhạt trong im lặng giữa hai người, Đạt nói bâng quơ:

-Mùa hè năm nay, mới trung tuần tháng tư mà khí trời nóng bức.

Rồi chàng nở nụ cười hồn nhiên xoay qua nhìn Hà:

-Xin lỗi cho cổi áo tràng, cô đứng đây chờ tôi một chút nhé, tôi phải đem cất nó trong nhà tổ.

Chừng hai phút, Đạt trở ra, đưa tay về hướng nhà dù trắng lớn nơi có nhiều người đang nhộn nhịp qua lại, Đạt nói lời trịnh trọng:

-Mời cô vào kia ngồi nghỉ, ở lại ăn cơm chay với tôi nhé!

Hà nhìn đồng hồ trên tay như để bớt đi sự bẽn lẽn khi đối diện mọi người đang nhìn nàng, Hà từ chối:

-Thôi đi, để em về, em không ăn đâu!

Lời từ chối ấy không phải là từ chối thật, chỉ là lời nói nửa ở, nửa về trong trạng thái không làm chủ tâm mình, nên đã bị lời nói thật của Đạt vô tình nhưng, thách đố, Đạt nói:

-Ừ, về thì về, tùy ý. Phật tử đến chùa không nên khách sáo, vì chùa là biểu tượng cho sự thật. Người đến chùa tấm lòng cũng phải thật như chùa. Mọi người đều tự nguyện, không ai ép ai phải ăn, phải theo, phải nghe giáo lý, phải vội tin. Nên suy nghĩ lại đi! Lời thật ưa mích lòng. Ở đây tôi mời thật, không như cái kiểu miệng mời, bụng vái trời đừng ăn.

Hà nghe Đạt nói như vậy, sợ mích lòng chàng, nên im lặng. Im lặng là chấp nhận, vì vậy nàng tiu nghỉu theo Đạt đến bàn ăn ở tại nhà dù. Đạt đưa Hà đến một bàn trống chưa có người, nhưng thức ăn đã được lần lượt dọn lên. Đạt chọn một nơi ngồi lý tưởng ở đầu bàn để dễ bề đi tới, đi lui cho cái chức vụ quản lý Phật sự đa đoan của chàng được thầy trú trì giao phó. Đạt kéo đầu ghế băng ra cách bàn một chút, mời Hà:

-Xin mời cô ngồi đây.

Hà ngồi vào ghế, đưa tay kéo vạt áo sau cho nằm gọn lên vạt trước, hai bàn tay ôm ghì chiếc ví trên hai búp đùi, đưa mắt nhìn quanh, khen ngợi:

-Thầy trú trì tổ chức khéo quá! Một bữa cơm chay, với số lượng đông người ăn như thế này, không phải là dễ!

Chưa đáp vội lời khen ấy, Đạt nói: “Xin lỗi cô một chút”, Đạt quay về phía Tân nói lớn:

-Ê, trưởng ban trai soạn!

Nghe gọi tên mình, Tân dừng chân trên đường vào bếp, nhìn về phía Đạt, miệng cười cười nói trêu:

-Phó trưởng ban tổ chức giờ này thì rảnh rang rồi, tha hồ “ngồi nhà dù ăn bát sành”. Có gì không đại ca?

-Nè, bàn này sao chưa có bún riêu vậy, cậu?

Tân trả lời bằng giọng nói gằn trên đôi môi cười hở, cùng bàn tay phải chè ra trước mặt, nhịp lên, nhịp xuống:

-Khi nào khách ngồi vào bàn đã, bún riêu mới đến sau cùng, thưa cậu phó ạ! Bún riêu, ăn nóng mới ngon, phó chạy bàn Mr. Phước sẽ bưng ra ngay bây giờ, xin ông phó yên trí đừng có lo!

Đạt ngồi vào bàn luôn một thể với Hà và để cho không khí được thêm thân mật hơn giữa hai người và cũng như để cho Hà khỏi bị bẽn lẻn, Đạt khơi lại lời khen về thầy trú trì của Hà khi nảy.

-Bà con về đây làm việc chùa bằng tinh thần tự nguyện, tự giác, không có lời nhắc nhở nào của ai cả.

Bỗng sau lưng có tiếng rao của Phước: “Bún riêu, bún riêu, một tô hai tỳ, hai tỳ một tô, nay ăn, mai trả tiền”.

Đạt liền đứng dậy, quay sau, đưa tay lên, miệng nói:

-Ông phó trai bán cho đây hai tô. À quên, ông phó trai soạn. Xin lỗi nghe!

Nhân đó Đạt nhìn vào bàn từ đầu đến cuối bàn, đưa tay ra hiệu mời khách: “Trong khi chờ đợi bún riêu tiếp tục lên, trân trọng xin mời quý vị có mặt ngồi xê lên đây và mời cầm đũa luôn”.

Nhìn thấy tô bún riêu của Hà vừa cạn hết, Đạt liền gắp một khoanh khổ qua kho, bỏ vào tô của Hà, Hà ngẩng đầu lên, cười, nói khẽ:

-Giời ơi, em không ăn khổ qua, đắng lắm!

-Sống trên đời, phải nhận chịu nhiều đắng cay, vì mọi sự thành công có đắng cay, mới có giá trị. Hoàn cảnh đau khổ, bức bách về tinh thần và thể xác được gọi là “cay đắng”, chính sau cay đắng đó, người ta sẽ tìm thấy niềm sung sướng và hạnh phúc. Có lần, một vị thầy hỏi đứa học trò rằng: “Khi nào con đạt được niềm hạnh phúc đúng nghĩa?” Học trò trả lời: “Thưa thầy, sau một ngày làm việc vất vả, mệt nhọc, khổ sở, bức bách… được lãnh tiền, được ngồi an nghỉ, chính là niềm hạnh phúc đúng nghĩa đối với con”. Cho nên, Bồ Đề được tìm thấy trong phiền não. Cũng như Niết Bàn không ly khai với khổ đau và sinh tử. Từ lúc nhỏ đến giờ cô đã tiếp nhận sự cay đắng nào chưa?

-Em chưa có lần nào cả.

-Không nhiều thì ít, không thể nào không. Tại vì cô chưa thấy nó. Cô phải thấy và bắt gặp nó mới được! Ai nên khôn, phải khốn mấy lần, chứ không phải một lần. Càng khôn càng khốn. Nếu cô chưa bắt gặp, cô sẽ bắt gặp theo định luật duyên khởi.

-Thôi, em sợ lắm!

-Đừng có sợ, vì đời là bể khổ mênh mông, nhưng ta hãy can đảm, mạnh dạn nhìn thẳng vào khổ đau, đừng tránh né, hãy nuôi dưỡng nó cho lý tưởng giải thoát, vì khi ta được giải thoát là nhờ ta biết rõ nó hơn ai hết. Thế nào, ăn thêm khoanh khổ qua nữa nhé!

-Thôi anh, để còn ăn món khác.

Với một ngôi chùa Việt Nam, dù ở đâu vẫn giữ truyền thống là khi nào chùa có lễ, là có cơm chay cho Phật tử ngọ trai. Mỗi lần như thế, để tỏ lòng đạo vị giữa thầy và tín đồ, thầy trú trì đến các bàn ăn để thăm hỏi bà con, quan sát các thức ăn có được đầy đủ hay không.

Hà thấy thầy trú trì đang sắp đến bàn mình, nàng chồm người tới trước nói với Đạt:

-Anh, thầy trú trì đang đến, thầy đang đứng ở dãy bàn sau lưng anh kìa, em sợ quá!

-Sợ gì mà sợ! Thầy đâu có ăn thịt ăn cá ai đâu mà sợ!

-Em sợ là vì tại lâu lắm, từ lúc thầy về nhậm chức lần thứ nhất, em về một lần. Và sau đó thầy lại về trung ương. Rồi thầy lại được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm lần thứ hai cách đây bốn năm. Vị chi gần mười năm em không về. Chỉ có hai đứa em và ba em thường về thôi. Còn em và má em bận buôn bán ở chợ nên không có về.

Thầy trú trì Phương Đoan vừa bước tới đầu bàn, Hà nuốt vội thức ăn, rồi chống đũa vào trong tô, nhìn Đạt, nhìn thầy, cúi đầu:

-Dạ, con xin chào thầy.

-A Di Đà Phật! Quý Phật tử ăn tự nhiên nhé!

Đạt liền giới thiệu:

-Bạch Thượng Tọa, hoa sen trắng được dâng lên các bàn Phật hôm nay là do cô này bán. Trong mười đóa ấy, có ba đóa của cô gởi cúng.

Thầy Phương Đoan khen tấm tắc: “Hoa tươi và to lắm! Chắc là hoa của làng Sen? Thầy xin ghi công đức cả hai”.

Thầy trú trì nhìn Hà và hỏi:

-Cô ở làng Sen hay làng Đậu?

-Thưa Thượng Tọa, con ở làng Sen.

-Ở làng Sen, ở đầu hay cuối làng?

-Thưa Thượng Tọa, con ở cuối làng.

Thầy trú trì nói vuốt đuôi: “Cuối làng, để coi.” Rồi thầy ngó nghiêng, nheo đôi mắt như để hồi tưởng điều gì trong tâm tư, đoạn thầy quay lại nói: “Ở cuối làng thì có các ông Nguyễn Thiện Thông, ông Dự, ông Lê Bá Hổ, tục gọi là Cọp bạch, vì đầu ông ấy tóc bạc trắng. Còn tại chùa đây, Phật tử gọi Pháp danh của bác là Nguyên Thần. Như rựa, ở cuối làng Sen, cô là con ông mô?”

-Thưa Thượng Tọa, ông Nguyễn Thiện Thông và bà Tú là bố mẹ con.

-Rựa hả? Úi chao ôi, té ra con Ôn Mệ Thông hè! Hôm ni, hai bác ấy xin thầy được vắng mặt ở đây để về dự lễ Phật Đản tại chùa Phật Đà, thuộc chi hội Phong Lan, vì năm nay có phái đoàn Tôång Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam về phụ giúp tổ chức và văn nghệ kính mừng Phật Đản. Thôi hị, ăn ngon, ăn tự nhiên nhé! Lời thầy chào Hà để đi đến các bàn ăn khác.

Thấy Hà bỏ đũa xuống bàn, chồng mấy dĩa không lên nhau, Đạt khẩn khoản mời Hà ăn thêm:

-Bộ no rồi sao, ăn nữa đi chứ, ăn thêm cái bánh ít nhé?

Vừa nói, Đạt vừa để cái bánh qua trước mặt Hà.

Như có vẻ được no thật, nàng đặt bàn tay phải phía dưới ngực ngỏ lời:

-Em no lắm rồi, cảm ơn anh, anh ăn đi!

Cùng lúc với tiếng nói, Hà lấy cái bánh để qua lại trước mặt Đạt, rồi cười như thể ngầm bảo Đạt thông cảm cho sự no nê của mình. Xong, nàng đứng dậy, đến bàn gỗ vuông được đặt ở giữa nhà dù, nơi có mấy cái bình sành lớn đựng nước trà nóng và nước trắng. Hà lấy hai ly, rót nước trắng vào, bưng lại bàn. Một ly để trước mặt Đạt, một ly cho mình, rồi tỏ lời cho Đạt rõ về hành động tự ý:

-Em không biết anh uống nước gì, em rót đại nước trắng cho anh luôn, vô tình bắt anh uống nước trắng như em!

Nhìn ly nước Đạt liền ngâm xổi một câu:

-“Một ly nước trong một lòng trong sạch”. Tôi thích uống nước trắng hơn.

Uống xong vài cụm nước, để ly lên bàn, Hà mở ví, lấy ống son, nhìn mặt mình vào gương ở bên trong nắp ví, đưa đầu ống son lên đôi môi, tô son lại. Xong, nàng đưa hai bàn tay ra sau gáy, tóm gọn mái tóc, rồi buông tay, ngước cổ lên, lắc người, làm cho mái tóc nằm thẳng giữa hai bờ vai.

Trong khi chờ đợi các động tác trang điểm bỏ túi của Hà, Đạt móc tờ chương trình trong túi ra, đọc từng tiết mục, rồi xếp nó lại hai ba lần, nắm gọn trong lòng bàn tay, đưa mắt nhìn Hà:

-Bao giờ cô mới về?

Câu hỏi thật dễ trả lời nhưng, nàng cứ ấp úng nhìn Đạt mỉm cười, nhìn chỗ khác trong vài giây, nàng nói:

-Về khi nào cũng được.

-Khi nào là khi nào? Có nghĩa là bây giờ cũng được chứ gì? Đạt hỏi vặn.

Nàng không đáp lại lời hỏi vặn của Đạt, liền quay mặt chỗ khác mang theo một thoáng giận hờn trên đôi mắt. Đạt biết ngay, liền tạo cơ hội cho nàng xóa đi một thoáng giận hờn ban sơ ấy là lúc có người đang đến các bàn để dọn dẹp chén bát, Đạt nói với Hà:

-Bây giờ mình rời chỗ này để cho họ dọn dẹp, ra ngoài kia cho mát. Xin mời cô!

Nói xong, bước ra khỏi ghế, làm kẻ dẫn đường, Đạt đi về hướng nhà tăng để ra cây Bồ Đề. Hà đi sau được vài bước, nàng gọi Đạt:

-Anh Đạt, cho em vào lễ Phật.

Nghe Hà nói, Đạt liền quay người đổi hướng qua phía trái để vào chánh điện ở cửa bên hông.

Là người Phật tử, ai cũng biết cách thức lễ lạy và lạy ở đâu trước. Hà vào bàn tổ, lạy tổ xong rồi, nàng ra trước bảo điện có đức Thế Tôn. Hà được Đạt trao cho ba cây nhang trầm, nàng đưa lên trán khấn vái giữa ba tiếng chuông gia trì ngân vang cách nhau vài giây. Sau khi Hà cúi đầu xá ba xá, Đạt bước tới lấy lại ba cây nhang từ tay Hà, cắm lên lư đồng trên bàn, điểm thêm ba tiếng chuông gia trì nữa, rồi bước lui, đi ra lễ đài phía trước để cho nàng tự nhiên dâng lễ, cúng vái…

Đạt đang loay hoay sửa lại cây lọng bên trái lễ đài bị ngả nghiêng, Hà đã đứng sau lưng Đạt từ lúc nào, nàng nói trầm trồ:

-Ai vẽ tượng sơ sanh, đẹp ghê! Vòng hào quang ấy vào ban đêm, điện sáng thì hết sẩy! Còn những chiếc lọng này trông giống lọng ở miếu làng, hả anh?

-Lọng này của chùa được tạo ra từ bao đời rồi. Thầy trú trì dự tính sẽ tạo thêm hai cây nữa, cỡ lớn.

Trông thấy có người ở dưới, trước lễ đài chuẩn bị chụp hình, Đạt bảo Hà:

- Xuống dưới này đứng cho mát, tránh chỗ để cho họ chụp ảnh.

Hà đi theo Đạt, bước xuống bục gỗ bên hông phải lễ đài, đến đứng dưới bóng cây Bồ Đề. Vừa đến, Đạt bước thật mau ra đến sân trước lễ đài, rồi trở lui với cái ghế dài trên tay, đặt ghế xuống, mời Hà ngồi. Mỗi người tự động chia nhau một đầu ghế cho quân bình sức nặng. Không ai bảo ai, ai cũng ngồi tréo chân lên nhau, cách ngồi của kẻ nhàn hạ. Dù nhàn hạ hay bâng khuân, mỗi người có niềm suy tư khác nhau. Nhất là thời gian của cuối ngày sắp tàn, tâm con người sẽ trở nên rộn ràng hơn, nếu không nói là bất mãn với thực tại vì chưa bằng lòng về mọi việc. Hà nhìn đồng hồ trên tay, nói một mình: “mới đây mà đã gần hai giờ”. Liền đó, Đạt cho nàng biết công việc sắp tới của chàng trong chiều nay:

-Còn một tiếng nữa, tôi sẽ đi phụ với thầy trú trì cúng thí thực cô hồn. Sau đó dọn dẹp bớt các thứ trước lễ đài, ráp các hệ thống đèn màu đâu vào đấy, để cho GĐPT trình diễn văn nghệ kính mừng Phật Đản tối nay vào lúc bảy giờ. Vậy mời cô ở lại xem văn nghệ?

Hà ngập ngừng. Thay vì nói ở lại hay nói về, thì lại hỏi:

-Mấy giờ anh về? Anh về bằng chi? Hay là em ở lại xem văn nghệ, sau đó về cùng thể với anh?

- Vâng, xin cảm ơn cô, có thể tôi sẽ ở lại và, nếu tôi có về, tôi sẽ quá giang các bác, vì có nhiều bác có xe Honda đi về hướng làng tôi.

Hà ngồi yên lặng đôi mắt nàng nhìn ra những khoảng nắng đang nhấp nhô dưới hàng thông cao vút bên trong hàng rào kẽm gai. Tấm thân nàng an trú trong trạng thái lặng thinh, tưởng chừng như tâm thức nàng đang hành thiền đúng pháp. Kỳ thực, không phải thế! Tâm nàng đang tư duy mông lung về lời khước từ của Đạt vừa qua đã khiến lòng nàng phát ra tiếng nói không lời bên trong.

Tấm thân duyên dáng và khả ái của nàng khó mà chinh phục tâm thức của Đạt theo ước muốn của nàng, nên Đạt cũng đồng tình ngồi thừ yên lặng như pho tượng. Nhưng tư duy của Đạt là bước chân của tâm thức đang rảo bước trong mọi chốn già lam thực tại của công việc Phật sự buổi chiều, chứ không phải là tiếng nói không lời bên trong đang đổ xô về hình ảnh hiện hữu nơi chiếc ghế, nếu không nói cùng ngồi mà ý nghĩ riêng tư. Bỗng phía sau có tiếng của Phước giả giọng con gái nói đớt, làm cho tánh nghe của Đạt và Hà nghe rõ khi Phước chồm miệng tới nói lớn:

-Anh Đạt ơi, đừng bỏ em một mình, anh đừng đi tu nghe anh!

Đạt liền quay ra sau, thấy Tân và Phước đang ngồi hút thuốc lá trước thềm nhà tăng. Đạt mỉm cười, đưa tay lên phất mấy cái ra hiệu bảo đừng nói sợ nàng mắc cỡ. Sau tiếng trêu ghẹo của Phước, Tân liền xổ giọng đàn anh dạy cho Phước một bài học:

-Phước, bạn là người Việt Nam và hơn nữa là đoàn viên thanh niên học Phật, mà bạn đã quên lời của cổ nhân đã dạy: “Trước khi nói điều gì ta phải uốn lưỡi bảy lần”. Sự nhờ uốn lưỡi chính là tâm có chánh niệm để thân tâm không nói không làm các điều sai trái. Lời nói trêu Đạt vừa rồi của bạn, xét ra bạn đã thiếu tư cách đứng đắn, mất lịch sự đối với khách, nhất là bạn gái của bạn trai mình. Nhớ luôn giữ tâm chánh niệm nghe bạn!

Phước liền đưa tay vỗ vỗ lên vai Tân nói:

-Xin lỗi đại ca, lần sau em nhớ sẽ uốn lưỡi trước khi nói.

-Bạn đến xin lỗi Đạt, mắc gì xin lỗi tớ!

-Không xin lỗi, nhưng xin tha được chưa?

Vừa nói xong Phước chìa bàn tay trước mặt Tân nói hạ giọng:

-Đại ca, em chừa rồi, cho em xin điếu thuốc Jet. Hí hí…, em thương đại ca lắm!

Tân rút ra cho Phước một điếu Jet cùng với lời hoan hỷ:

-Nè cha, hút đi, hút cho đôi môi thêm tím, cho lá phổi thành tàng ong vò vẽ. Tớ thấy người môi thâm ít nói, sao bữa này bạn nói nhiều thế?

Sau tiếng “cóc” của Zippo đậy nắp, Phước nghiêng mặt qua bên, phì khói thuốc trả lời:

- Hôm nay là ngày Phật Đản, mình phải nói đùa cho vui một tý, rồi ngày mai nhỡ ra tình không vui khi đã vẹn câu thề, chừng ấy mình sẽ tính sau.

Tân nghe Phước nói “tình không vui khi đã vẹn câu thề”, liền đưa ngón tay lên môi, suỵt nhẹ:

- Ê, nói nho nhỏ đủ nghe. Bạn nói “tình không vui”, Đạt nó nghe, nó tưởng mình nói nó, mích lòng lắm đấy!

- Như vậy, đại ca không hiểu gì về Đạt cả! Thế nào nó cũng sẽ đi tu. Nếu má nó ép, nó lập gia đình, rồi sau đó Đạt cũng sẽ đi xuất gia, vì chí xuất trần của Đạt đang ở vị trí thượng tầng của tư tưởng, do vậy Đạt đã thọ nhiều giới pháp: năm giới, mười giới và mười giới thiện nghiệp, thêm giới hạnh nguyện Bồ Tát tại gia nữa cho nên, dù ai đó, dùng ngàn lời độc ác mắng chửi Đạt, Đạt vẫn tươi cười, đặt lời mắng chửi đó ngoài hành lang trí óc, huống hồ là lời trêu ghẹo của tụi mình, yên chí lớn, đừng sợ!

Vừa hít mạnh dứt đoạn thuốc cháy lui sát đầu lọc, Phước búng tàn thuốc ra đất, ngước mặt lên phì khói, thở ra, nuốt nước bọt, nói một cách hụt hơi:

-Không biết bạn thế nào, chứ tớ hiểu nhiều về Đạt, dù Đạt chỉ là một cư sĩ tại gia, nhưng thân tâm của Đạt y như là bậc xuất gia. Vì từ lời nói đến việc làm trong sinh hoạt đối với đời, với đạo, Đạt luôn luôn thể hiện ra các trạng thái khiêm cung ái ngữ trong giao tiếp, đối đãi từ hàng Tăng bảo xuống đến nam, nữ cư sĩ, dân dã ngoài xã hội, và ngay cả đến với các trẻ con đều hành sử bằng tâm bình đẳng. Nhất là đối với giới Tăng bảo, Đạt rất tôn kính lễ lạy mỗi lần thưa trình về Phật sự. Thứ đến, đối với bạn đồng tu cư sĩ, Đạt luôn luôn thể hiện thái độ cầu tiến để tiếp nhận lời chỉ giáo của bậc đàn anh có quá trình tu học và Phật sự trên vận hành giáo vụ. Nhìn tư cách, lời nói và đôi mắt, ta biết ngay người đó tâm của họ đang ở vị trí phàm tục hay là bậc thánh. Từ đó bạn biết không, các đạo hữu tại chùa, cũng như bà con xóm làng, các nhân viên hành chánh Quận thường gọi Đạt là ông Phật. Mặc dù chức vụ Đốc Sự hành chánh phó Quận trưởng quận Sơn Khê, nhưng Đạt luôn luôn khiêm nhường, không tự mãn, lúc nào cũng thể hiện tình người bằng sự giúp đỡ mọi người gặp hoàn cảnh khó khăn, nên mọi người đều kính trọng và khen ngợi Đạt hiền như Phật. Hiền không có nghĩa là ngồi im không nói đâu, nghe bạn! Tớ thấy Đạt, nó “nói năng như chánh pháp và im lặng như chánh pháp”. Bạn còn nhớ năm ngoái, khi phái đoàn khối tu học của Tổng Hội Cư Sĩ PGVN từ trung ương về tổ chức tu học tại chùa Bảo Quang mình đây với đề tài “Thiền có mặt cùng khắp trong Tam tạng kinh điển Phật giáo”. Trong giờ pháp đàm, Đạt đã phát biểu khế lý Thiền ở lãnh vực tâm từ bi. Tớ đã ghi chép lời phát biểu của Đạt và học thuộc lòng luôn. Đại khái như thế này: “… , vì tâm từ bi là do tâm có trí tuệ đẻ ra, ngược lại tâm có trí tuệ là do tâm từ bi mà có, cho nên Thiền là phải tĩnh lặng, nếu không nói là đức tính từ bi, nhẫn nhục được hiện ra ở lời nói và hành động. Một số người tu thiền hiện nay có những lời nói và hành động thiếu khiêm cung, ái ngữ do tu sai Khế lý, nên khiến thân tâm của họ ở vào thể đôäng, do đó trong giáo tiếp với mọi người: thân, miệng của họ lăng xăng, khoác lác, nói năng trông giống người đi bán thuốc Sơn Đông không bằng. Nếu không nói là hành động tăng thượng mạn, khoe khoang, nhân ngã, thậm chí họ có lời nói chê bai, thái độ khinh khi các cư sĩ khác đang tu về các pháp môn: Mật tông, Tịnh độ và các công tác Phật sự của các giáo hội. Sở dĩ người tu thiền mà có thái độ vô lễ với Tăng bảo, với nam nữ cư sĩ, giai do thiếu hai đức tính cơ bản là tâm từ bi và trí tuệ. Vì thiếu từ bi, trí tuệ, nên không có sự hiểu biết. Sự hiểu biết ở đây theo danh từ Phật học là “Tri kiến”, có nghĩa là thấy, biết. Người không có tri kiến như người ngồi trong căn nhà tối. Cho nên, Phật đã dạy cho hàng Tăng bảo và cư sĩ rằng: “người tu giáo pháp giải thoát, tri kiến được đặt hàng đầu. Nếu thiếu tri kiến, người tu sẽ sanh tâm kiến chấp. Người phá trừ được mọi kiến chấp chỉ có người tri kiến mới làm được, chứ không phải người không có tri kiến mà làm được”. Do vậy, người mù, mấy đời mà nói đúng được thân con voi! Bạn biết không, lúc Đạt phát biểu, mọi người ai cũng ngồi yên lặng, đôi mắt hội tụ hướng về Đạt, đôi môi hở, xoe tròn trong tư thế nhìn, nghe. Khi Đạt vừa dứt lời, đạo hữu Mật Nghiêm, trưởng khối tu học của Tổng Hội Cư Sĩ làm chủ tọa, nói: “Xin cảm ơn đạo hữu Chơn Tánh Lê Tất Đạt đã trợ duyên tâm pháp cho đại chúng hiểu thêm ‘tâm từ bi trong hành thiền’. Xin đại chúng phát biểu thêm cho! Đạo hữu Mật Nghiêm nhìn quanh một vòng, thấy không ai đưa tay, liền mời đại chúng giải lao.

Bạn biết không, tớ định đưa tay phát biểu về “đức tánh nhẫn nhục trong hành thiền” nhưng, nghiệt là ngồi gần bốn bà: Bạch Tuyết, Như Thủy, Tâm Tịnh, Nguyên Minh. Mấy bà khá giáo lý lắm! Làm cho ý tưởng của tớ bị rụt rè, chui vào nằm im ở tạng thức.

Sau lời Phước lặp lại các tình tiết của buổi tu học, Tân không góp ý gì, bèn cười, quay qua Phước hất hàm hướng về gốc cây Bồ Đề: “Kìa, Đạt bỏ em một mình kìa!”

Phước hạ thấp trán cho tầm mắt dưới chòm lá Bồ Đề phía trước, nom mắt nhìn trách:

- Tiếp khách cái kiểu gì mà bỏ khách ngồi một mình thế, chắc là nó đi đâu đó thôi!

Như biết có người đứng sau mình, Phước ngoảnh mặt lui:

- Mô Phật, tiếp khách sao lại để khách cô đơn vậy bác?

Đạt vừa bưng hai ly nước trên tay vừa trả lời:

- Đâu có! Sẵn đi lấy nước uống, ghé vào nhà tăng, hội kiến với thầy Nguyên Phương về vấn đề Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam.

- Hội kiến như thế nào? Lời Tân hỏi Đạt.

- Nói hội kiến, chẳng qua dùng từ cho vui thôi, chứ thật ra chỉ là lời nhắn nhủ: nhờ thầy khi về lại trung ương, trong những buổi họp, xin thầy trình bày với Hội Đồng Viện Hóa Đạo về vấn đề Tổng Vụ Cư Sĩ, mà trực tiếp là vị Tổng Vụ Trưởng đã bỏ bê công tác giáo vụ của cư sĩ gần tám năm nay, không hoạt động. Và nghe đâu vừa rồi có hoạt động hội họp nhưng, chỉ là sự hội họp mang hình thức biệt lập của tông phái mình, không nhằm vào trên cơ sở của cộng đồng Phật Giáo Thống Nhất do sau khi giựt mình nhìn thấy Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam ra đời. Đại khái vài lời vậy thôi! Nè, chặp nữa, tôi bận đi cúng thí, nhờ mấy bác mở hai cây lọng, xếp cất vào kho và dẹp cái bàn hương án, đem hoa quả, lư, đèn vào nhà tổ, chỉ chừa bức tượng sơ sanh trên cùng. Dọn bớt để có chỗ trống cho GĐPT trình diễn văn nghệ khỏi bị vướng. Còn giàn đèn để đó cho tớ lo. Nhưng mà chưa vội, vì còn để cho thiên hạ chụp ảnh. Cỡ chừng năm giờ hãy dẹp.

- Được rồi, bạn yên trí, cứ lo tiếp khách đi, mọi việc trên lễ đài để tụi tớ sẽ lo cho hết. Lời hứa hẹn của Phước.

Đạt cười, đáp:

- Tiếp khách là việc nhỏ. Việc quan trọng là một giàn ánh sáng đèn màu, mới đán lo đây bố à, nói xỏ nữa!

Nói xong, Đạt đi về chỗ cũ, đưa cho Hà một ly nước, rồi tự khai công tác:

- Nãy giờ vào nhà tổ thăm và nói vài chuyện Phật sự với thầy Thích Nguyên Phương, giảng sư của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN và nhờ mấy ông bạn dọn bớt các thứ trên lễ đài để chuẩn bị cho buổi trình diễn văn nghệ tối nay. Sao, nãy giờ có ai đến phá phách và nói gì với cô không?

Hà cười:

- Nếu có ai đến trêu chọc em, anh sẽ có hành động gì đối với họ, anh có bắt họ quỳ hương không?

Đạt đáp lại:

- Tôi sẽ quỳ lạy họ và năn nỉ họ đừng nên trêu chọc các yếu nhân, vì trêu chọc các yếu nhân của phái nữ như ngắt một cánh hoa, dù là hoa dại bên đường. Hành động của tôi như vậy, có được không, thưa cô? Nhưng riêng tôi, tôi sẽ bắt cô quỳ hương.

- Em đâu có tội gì mà anh bắt em quỳ?

- Có chứ! Cô đã tự khai với thầy trú trì tại bàn ăn cơm lúc thầy đến đó, nhớ chưa? Cái tội bỏ chùa bao nhiêu năm không về lạy Phật lạy tổ, không trợ duyên Phật sự cho mọi người gì cả!

Hà mở ví, lấy khăn tay, vén tóc, lau cổ, chậm môi, rồi lý luận:

- Em bỏ chùa, bỏ Phật tượng bằng đá, bằng gỗ… chứ em đâu có bỏ đức Phật trong tâm em.

Đạt khen Hà tấm tắc:

- Hay lắm, nói đúng lý đấy! Nhưng mà, xin cô nhớ cho: nhờ chùa, nhờ Phật tượng bằng đá, gỗ, đó mà đức Phật trong tâm của cô, của mọi người được ngồi đúng giữa tâm. Nếu không nhờ những phương tiện có hình thức hữu vi đó, đức Phật trong tâm của mọi người sẽ bị ngồi lệch, quay mặt vào các góc độ khác nhau. Có những người Phật tử, tượng Phật trong tâm của họ đang bị ngồi quay mặt vào trong.

Đức Phật trong tâm của con người là vô tướng, không có tầm vóc và trọng lượng, nên so với các tượng Phật bằng đá, bằng gỗ do con người tạo ra, dù cao, lớn, nặng đến đâu cũng không thể bằng tượng Phật trong tâm. Hay nói khác hơn: một mình mình khó mà đặt ông Phật trong tâm của mình ngồi đúng ở giữa, nên cần về chùa để gặp thầy, gặp bạn: nam nữ Phật tử, nhờ họ giúp cho mình một tay, xúm nhau đặt đức Phật của mình ngồi đúng ở giữa tâm mình. Nếu không lầm, tôi đã nghe rõ một số Phật tử nói rằng: “tu tại nhà cũng được chứng ngộ, cần gì phải đến chùa”. Họ nói như vậy rất là đúng lý. Nhưng lâu lâu vào các ngày lễ lớn, thấy họ xuất hiện tại chùa. Sự đến của họ không phải như những người khác. Họ chỉ đi quanh để ngắm cảnh như là một người bàng quan. Gặp ai, họ cũng nói về Thiền, về cách đốn ngộ… Nhìn cách nói Thiền của họ, ta thấy đức Phật trong tâm của họ bị đặt ngồi lệch hướng, quay vào góc độ kiến chấp, vì thái độ và lời nói thiền của họ trông giống như người hát tuồng múa rối. Nếu nói không cần chùa, không cần tượng Phật bằng gỗ, bằng đồng, đá, giấy,… Như vậy chư tôn đức tiền bối, chư tổ đề xướng công cuộc hoằng dương chánh pháp bằng việc xây chùa, đúc tượng, in kinh sách làm chi! Cho nên nhờ các phương tiện hữu vi đó mà mình được nghe tiếng nói đức Phật trong tâm mình, mình thấy đức Phật trong tâm mình ngồi đúng ở giữa. Từ đó, mỗi người nam nữ Phật tử chúng ta là những tượng Phật được kiến trúc bằng tứ đại và năm uẩn, ta nương vào họ để đức Phật của lòng ta được ngồi đúng giữa.

Hà gật đầu, có vẻ đắc ý, nàng phụ họa:

- Như vậy, từ nay em sẽ nương vào anh để đức Phật trong lòng em, được ngồi đúng ở giữa phải không?

- Đúng vậy, cô cũng là đối tượng của tôi, để đức Phật trong tâm của tôi được ngồi đúng ở giữa.

Hà chen lời vào khi Đạt vừa ngưng:

- Em thắc mắc chỗ này: “Nếu như ai đó, đức Phật trong tâm họ đã được ngồi đúng ở giữa rồi, thì họ ngồi tu ở nhà, không cần đến chùa cũng được chứ! Chẳng hạn người nào nói mà anh đã nghe đó?

Đạt đưa ly nước lên môi, uống vài ngụm, rồi đặt cái ly vào lòng hai bàn tay trên đầu gối, giảng giải:

- Vâng, ở đây, tôi muốn nói đức Phật trong tâm con người chưa được ngồi đúng ở chính giữa, chứ không nói đã ngồi đúng ở giữa. Người, mà đức Phật trong tâm của họ đã ngồi đúng ở giữa, thì không bao giờ nói: tu ở nhà, không cần chùa, không bao giờ khoe khoang, tự mãn cách tu của mình cho người khác biết, tư cách của họ rất là tế nhị, trầm lặng. Họ thỉnh thoáng có mặt tại chùa là để rà lại cái tâm trong việc Phật sự có bị lay động hay không khi đối diện giao tiếp với nhiều gương mặt dễ thương và dễ ghét. Vậy cô còn gì thắc mắc nữa?

- Còn nhiều vấn đề em cần hỏi, anh có đủ thời giờ để trả lời không?

- Thời gian không thành vấn đề, hôm nay nói chưa hết, để đó lần sau có dịp gặp nhau nói tiếp. Chỉ sợ người nghe có kiên nhẫn chịu ngồi hay không thôi, chứ người nói lúc nào cũng sẵn lòng đáp ứng. Nào vấn đề chi, hỏi đi?

- Lúc sáng em có nghe ở bài thông điệp có đoạn: “Hiện nay những thế lực vô minh đã và đang …”

Mới nói đến “đã và đang” nàng ư … ư … rồi nhép môi mỉm cười, nheo mắt nhìn qua Đạt cầu cứu:

- Em không nhớ hết, anh có nhớ đọc cho em nghe đi!

Đạt nhanh tay rút tờ thông điệp từ túi quần ra, nói một cách quả quyết:

- Đây, đây có đây, muốn nghe đoạn nào cũng có hết.

Sau đó Đạt mở tờ giấy ra, đọc lớn từng câu: “Hiện nay những thế lực vô minh trong và ngoài nước đã và đang cấu kết với nhau, âm mưu tiến hành những thủ đoạn vụn vặt nhằm phá hoại khối Phật giáo để gây chia rẽ với nhau, nhất là GHPGVNTN tại quê nhà và hải ngoại là mục tiêu chúng đang chĩa mũi nhọn đến”.

Đạt ngưng đọc, nhìn Hà hỏi:

-Có phải đoạn đó không?

-Dạ đúng rồi. Về vô minh theo em hiểu: đối với cá nhân phàm phu tu tập Phật pháp mà còn vướng phải: tham, sân, chấp ngã, thì cá nhân đó tự mình nuôi dưỡng mà lực để phá hoại mình, đưa mình vào con đường dữ. Còn đối với cả một cộng đồng Phật Giáo Thống Nhất, thế lực vô minh nào dám cả gan phá hoại tiềm lực của Phật Giáo? Em chưa hiểu những thế lực vô minh đó xin anh giải thích cho em được rõ.

Vừa dứt tiếng nói của Hà, Đạt đứng dậy, ra trước lễ đài gọi anh Liên Đoàn Trưởng GĐPT Nguyên Phú Huỳnh Tấn Hải lại dặn dò:

-Anh nên cho các em nhổ trại vào lúc năm giờ để thu dọc các thứ và cho làm vệ sinh chung quanh. Sau đó các em sẽ được ăn bún riêu và chè do các bác trong ban Hộ Trì Tam Bảo thếch đãi. Ăn sớm để còn lo duyệt lại các vũ khúc mừng khánh đản và nhất là vở kịch “Năm người mù rờ voi” phải được ôn (dợt) lại trước khi lên sân khấu.

Đạt trở lui, ngồi vào ghế, tự nói một mình như để cho Hà biết lý do tại sao không trả lời câu hỏi của nàng:

- Làm chức gia trưởng GĐPT không khác gì chức cố vấn! Nên việc chi anh em cũng hỏi mình, rồi mình cũng phải xem xét chỉ bảo thêm. Có lúc không dám bày vẽ thêm sáng kiến sinh hoạt mới của mình, vì lẽ tuổi tác của mình và anh Liên Đoàn Trưởng xấp xỉ gần bằng nhau. Tuy nhiên, GĐPT ở chùa chi hội nầy rất là dễ thương, mặc dù là quận hạt nhưng, đa số gia đình ở đây là nguồn gốc nho giáo tu theo đạo Phật, nên chi đã qua bao đời mà con cháu của họ vẫn giữ đạo đức lễ nghi của cha, ông để lại. Mặc dù họ theo Tây học làm quan làm giáo sư, giáo viên mà không mất truyền thống. Chứ còn ở một vài tỉnh lớn; giữa GĐPT và các bác trong Ban Đại Diện tỉnh hội, đôi khi có sự bất đồng ý kiến trên cơ sở phụng sự đạo pháp. Ngay cả BHDTƯ đã bị thế lực chính trị âm mưu muốn tách rời GĐPT vụ ra khỏi Tổng Vụ Thanh Niên. Âm mưu muốn tách rời đó không thể thực hiện được dù bất cứ ở đâu vào thời điểm nào. Vì GĐPT là một trong những cành của cây đại thọ Bồ Đề. Nếu cành của GĐPT bị chặt lìa khỏi thân cây đại thọ Bồ Đề, cành GĐPT sẽ bị khô héo dưới ánh nắng của vô minh bạo lực. Sở dĩ có âm mưu phi đạo lý đó là do những cán bộ công an Cộng Sản nằm vùng trong tổ chức GĐPT tại BHĐTƯ. Một vài người Cộng Sản nằm vùng trong BHĐTƯ-GĐPT ai cũng biết, đó là Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm … Họ lợi dụng tình cảm anh em trong gia đình áo lam có sự tương kính lẫn nhau. Từ đó họ móc nối, xúi giục các anh em huynh trưởng, nên một số nhẹ dạ đã ngả về phe họ, đồng tình đưa ra những yêu sách trái với đạo lý tương duyên trên vận hành giác tha. Do vậy một số ít huynh trưởng nhẹ dạ đó hiện đang có lời nói và hành động kém lễ độ đối với anh chị em GĐPT có tinh thần quốc gia dân tộc. Đúng là “gần mực thì đen”.

Đạt ngưng một chút rồi quay lại Hà:

- Cô đang nóng lòng muốn nghe thế lực vô minh phải không?

- Vâng, em muốn nghe mà sao nãy giờ anh chưa chỉ rõ mặt thế lực vô minh?

- Tôi đã chỉ rồi đó, cô không thấy hả?

- A, té ra anh đang nói về những người anh em của ta trước!

- Đúng! Sư tử trùng thực sư tử nhục. Người học Phật tu tập thiền quán phải hiểu câu này để nhìn lại vào lòng mình mà diệt vô minh đang đục khoét tâm thức. Các nhà quân sự và chính trị phải áp dụng câu này để nhìn sâu vào nội bộ mà tìm ra kẻ phản thần cấu kết với ngoại thù là suy  yếu tiềm lực. Nói về vô minh, nội vô minh rất nguy hiểm hơn là ngoại vô minh. Cho nên, con người bị luân hồi do vô minh của mình. Phật giáo không đoàn kết không do ngoại vô minh mà do chúng ta yếu về cách diệt trừ nội vô minh của mình! Do vậy mà không thấy ngoại ma trong nội bộ mình.

Đến đây Đạt ngưng nói, nhìn ra phía lễ đài, đưa tay ngoắt một em oanh vũ nữ. Bé Vân chạy đến cúi đầu chào rồi đứng nghiêm.

Đạt nhìn bé Vân nói: “Em ngoan lắm, anh miễn lễ cho em, đứng đó để anh nhờ một tý”.

Trong lúc bé Vân đang đứng, Đạt quay qua Hà bảo nàng đưa cái ly không, rồi tươi cười đưa cho bé Vân với lời dặn dò:

- Em vào trong bếp, rót cho anh hai ly nước. Nhớ rót lưng, đừng rót đầy nhé.

- Cô bé dễ thương và đẹp gái quá, anh hả!

Đạt phụ họa thêm:

-Em bé đó là con của cô giáo Dung ở đây, bố là sĩ quan QLVNCH, cấp bậc đại  úy, trưởng ban ba hành quân chi khu.

Chưa tới bốn phút, bé Vân đã đến gần Đạt, với hai ly nước trong tay. Bé đi chầm chậm, vừa ngang qua bên hông Đạt, Đạt đứng lên đỡ lấy và đưa lời khen: “Em giỏi lắm, đưa đây anh, xin cảm ơn em”.

Đạt đưa hai ly nước lên trước mặt, nhìn nói vui:

- Không biết ly nào của cô! Thôi kệ uống đại, tôi không có ho lao đâu mà sợ!

Hà bưng ly nước lên uống mấy hớp rồi cũng nói đùa:

- Vi trùng cốc của ai mới đáng sợ, chứ vi trùng cốc của anh hiền lắm, vì chúng đã quy y với anh rồi, khỏi sợ!

Đạt đáp lại:

- Chưa chắc đã quy y rồi mà hiền! Có người quy rồi, nghe pháp đã lâu mà đâu có hiền! Vô minh là ở chỗ đó. Từ vô minh cá nhân này, gặp vô minh cá nhân khác, hợp nhau lại thành một vô minh tập thể thường gọi là những tư tưởng lớn gặp nhau, đúng với câu: trâu tìm trâu, mã tìm mã. Ta tìm thấy những tập thể vô minh này ở tập đoàn Cộng Sản Việt Nam, tập đoạn bạo quyền Ngô Đình Diệm, tập đoàn Đảng Cần Lao, tập đoàn đế quốc đen La Mã tại Việt Nam. Vô minh là một bản chất, nên cho dù họ học rộng đến đâu, bản chất tham lam, tàn ác, vô nhân đạo … vẫn hiện hữu trong tâm thức họ như là một chất xúc tác. Gặp thời, gặp thế, họ liền thế thời phải thế gọi là chụp giựt thời cơ. Điển hình như gia đình Ngô Đình Khả: từ cha đến con đều xuất thân từ Nho giáo, học rộng uyên thâm đạo lý làm người. Trong đạo lý đó, Nho giáo dạy con người trung quân ái quốc, công minh liêm chính, ăn ở hiền lành … Vậy mà, khi bọn da trắng vào đô hộ nước ta, lập nên chính quyền bảo hộ. Theo lưng bọn thực dân là tập đoàn đế quốc đen La Mã lập nên đạo Thiên Chúa tại Việt Nam. Đạo Thiên Chúa và chính quyền cai trị là một. Từ đó gia đình Ngô Đình Khả từ cha đến con, tất cả đều đánh mất đạo lý Nho giáo khi họ theo đạo Thiên Chúa, họ được chính quyền cai trị và các linh mục của đạo Chúa phong cho chức quyền cai trị quốc gia trong chính sách người Việt trị người Việt. Từ khi anh em Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, họ dùng quyền thế đàn áp, bắt bớ, tù đày, ám sát giết hại những người có lòng ái quốc và người theo đạo Phật. Trong chính quyền và quân đội, họ bắt ép, hăm dọa, dụ dỗ quân, dân, cán chính bỏ đạo Phật theo đạo Chúa để được thăng chức, được giàu sang do bóc lột tài sản của dân.

Đối với cá nhân đầy tham vọng là một cơ hội cho họ sẵn sàng quỳ gối cúi đầu rửa tội để được ban cho quyền chức, cấp bậc. Nhưng đối với người có trí tuệ thì không. Do vậy, đâu phải tất cả nhân viên chính quyền và sĩ quan trong quân đội đều theo đạo Chúa hết đâu! Chỉ có những kẻ vô minh mà thôi. Chính những tập đoàn đó là thế lực vô minh. Họ đã và đang cấu kết phá hoại Phật giáo trước đây và hiện nay, vì Phật giáo chủ trương tận diệt vô minh, hết vô minh mới giải thoát. Người tu theo đạo Phật, nếu còn tham lam, tàn ác, ích kỷ, tự mãn, bỏn sẻn, kiến chấp …, đó là những vô minh, là những địa ngục đưa con người luân hồi trg thế giới đau khổ. Đạo Phật là đạo cứu khổ cho con người, do vậy người của đạo Phật thấy những tập đoàn vô minh đó đã và đang tàn sát, áp bức, tù đày nhân dân Việt Nam. Nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tìm cách giải cứu cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nạn bằng lời kêu gọi họ từ bỏ lòng hung ác đối với người dân, kêu gọi quốc tế hãy đồng tình với Giáo Hội tìm biện pháp cứu vãn dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nạn. Do vậy mà họ sợ mất danh vọng, tiền tài, quyền thế họ đang có trong tay, nên họ hợp nhau chống lại Phật Giáo.

Đang nói, thấy Hải đến, Đạt dừng tiếng nói, quay qua Hà nói lời xin lỗi để đi gặp Hải. Đạt đứng lên bước tới, cùng lúc Hải đi đến, hai người gặp nhau cách ghế chừng ba mét. Chỉ vài tích tắc, Hải và Đạt song hành với nhau đi đến trước lễ đài. Sau đó chưa đầy hai phút, Đạt trở lại ghế, chàng cầm trên tay một bản tin Lộc Uyển, dày chừng bốn tờ giấy. Đạt ngồi xuống, vừa nói vừa lấy ra một tờ giấy khổ đánh máy được đặt giữa tập Bản Tin Lộc Uyển, tự giới thiệu:

- Đây là danh sách mấy em thiếu niên tham dự trại huấn luyện A Dục, sẽ được gởi lên cho ban tổ chức vào ngày 15 tháng 7 sắp đến là thời gian nghỉ hè của mấy em. Ngành thiếu của GĐPT Lộc Uyển ở đây được chọn năm em hai nữ, ba nam. Và, đây là bản tin Lộc Uyển. Vừa nói xong, Đạt để bản tin qua gần Hà. Hà cầm bản tin, nhìn sơ qua, xếp lại rồi nghiêng qua Đạt:

- Anh cho em xem tờ danh sách, để coi có con Minh nhà em được chọn không.

Hà lấy tờ giấy từ tay Đạt trao qua, nàng đưa mắt nhìn từ trên xuống, vừa tới nửa trang Hà hô lên:

- Đây Nguyễn Thị Minh, em của em nè.

Hà vừa nói vừa đưa mặt trang giấy qua phía Đạt. Đạt liếc mắt nhìn, đồng thời đưa tay lấy tờ giấy, nhìn thoáng giữa trang, rồi cuốn tròn, nắm gọn nó giữa hai lòng bàn tay bó gối ở thế ngồi tréo  chân, mắt đăm chiêu ra phía cổng chùa, im lặng trong vài giây, đoạn nhìn sang Hà nói lảng sang chuyện khác:

- Quý bà, quý cô nhà ta mỗi khi cầm hương, quỳ trước Phật, đôi môi thường mấp máy chuyển động. Có khi có cả âm thanh xuýt xoa nữa. Chứng tỏ phái nữ tỏ lòng thiết tha cầu nguyện dữ lắm! Như vậy, lễ Phật vừa rồi, cô có nguyện cầu gì không?

Hà nhìn Đạt, nàng cười mím môi, làm cho cặp mắt bồ câu của nàng ti hí như trẻ con làm xấu sau hai bờ mi đen cong vểnh, đôi môi biến dạng trở lại tròn xoe như đóa hồng nở búp. Hà thò tay lấy bản tin Lộc Uyển nơi ghế bên trái. Nàng ngước cổ lên, tay phải cầm bản tin quạt phe phẩy lên má, nàng tự nhận:

- Phái nữ tụi em là vậy đấy. Mười người như chục, hễ đi lễ chùa, lễ miếu, lăng ông, bà cốt, quỳ trước Phật, trước Thánh, ai cũng đem tâm niệm nguyện cầu. Người cầu bình an, kẻ cầu thắng lợi … Như thế mới gọi là thiện nam tín nữ. Riêng em, em cầu … Thôi, kỳ lắm, bí mật, không nói đâu!

- Không nói tôi cũng biết. Đạt đoán mò.

Nàng õng ẹo:

- Vậy, anh thử nói xem nào, có đúng ý em không?

- Dại gì mà nói, Đạt đáp với nụ cười chúm chím.

Đạt biết chắc Hà không cầu nguyện được Phật ban phước, ban lộc. Vì quan niệm về Phật của Hà là ở tại tâm con người hơn là ở tượng Phật trên bàn. Nên sự lễ lạy của nàng nhằm vào các hình tượng chỉ là một khía cạnh trợ duyên làm mạnh cho tâm thức mà thôi. Sở dĩ nàng nói “em cầu …” rồi ấp úng không nói thành lời, chẳng qua nàng muốn thổ lộ tình cảm của mình cho Đạt được biết. Vì mọi mô thức (pháp) được cấu tạo thành hình ở ngoại vi thực thể là do bởi tư tưởng tạo tátổ chức cái nhân đầu tiên để có cái quả hiện hữu thực thể. Nhất là ở những cuộc tình, nên cho dù trạng thái có ấp úng, đối tượng đã biết ngay đối tượng mình đã xây dựng cái nhân tình yêu ở tư tưởng rồi. Cho nên, Đạt đã nói “tôi biết, nhưng không nói”. Không nói mà lại trúng ý nàng, nên Hà thách đố Đạt “thử nói xem nào, có đúng ý em không”.

Cả hai đều biết tư tưởng nhau. Đạt biết Hà có ý niệm yêu mình. Còn Hà, nàng biết Đạt đã thấy rõ tư tưởng của mình, nên nàng đã sung sướng trong im lăëng mà tư duy câu nói của Đạt “không nói, tôi cũng biết rồi”. Vì chỗ biết tư tưởng nhau, nên sau tiếng nói, tiếng cười, các trạng thái trữ tình … Bỗng dưng tấm thân của hai người an trú trong bất động. Làm cho không gian vốn cô đơn yên lặng, bây giờ cũng đồng tình tiếp sức từng phiến cô đơn bao phủ rõ nét lên vạn vật. Nhưng thực chất, tâm con người là một dòng điện luôn luôn hằng chuyển. Dòng điện đó mạnh hay yếu là do năng lượng cao, thấp của nó. Tâm con người cũng thế, hằng chuyển ở mức độ sống động hay trầm lặng tủy theo cảnh trần bên ngoài làm duyên cho ý thức bên trong. Do vậy, tâm tư của Hà an trú trong tấm thân bất động không giống tâm tư của Đạt. Bởi lẽ tư tưởng của nàng bị Đạt khám phá, nhìn thấy xuyên suốt. Nên từ đó tâm tư của nàng liên tục hằng chuyển trong tư duy im lặng ở thân, nhưng tâm rất là rộn ràng.

Chỉ trong vài khoảnh khắc đó thôi, mà chơn lý vô thường đã bao trùm cả thân tâm của nàng, làm cho nàng bị thay đổi từng sát na. Nàng sẽ còn thay đổi nhiều hơn thế nữa. Có lẽ, Đạt là người đã nhận chân cái lý vô thường của tâm thức, nên chàng dè dặt không cho tâm thức tiến sâu vào con đường tình cảm. Vì chỗ đó, Đạt cảm thấy ngồi lâu trong im lặng là tiếp nối năng lực tư duy sống động cho nàng. Đạt liêèn đứng dậy, nhìn Hà, miệng tươi cười, nói nửa đùa nửa thật:

- Xin lỗi cô, tôi đi đây một chút, nếu cảm thấy muốn về thì cư việc. Và thấy tôi không trở lại sau mười lăm phút là biết tôi bị Ma Đăng Già bắt cóc, thì cô lo mà gọi chín một một nghe chưa!

- Vâng, mặc kệ em, anh khỏi lo, anh cứ đi đi, mà nó sợ anh có hơn, chứ ma nào dám bắt anh. Nàng vừa nói vừa cười ngặt nghẻo.

Nói xong, Đạt ra trước lễ đài để Hà ngồi một mình ra sao đó thì ra. Nếu không nói là mặc kệ nàng ở cái nghĩa buông xả, không quan tâm đến. Sau đó gần hai mươi phút, Đạt trở lại. Vừa đến ghế, Đạt vén tay áo xem đồng hồ rồi ngồi xuống, tiếp tục trong trạng thái yên lặng như để thể hiện tâm tư lúc này là không còn gì để nói nhưng, giữ đúng lịch sự tiếp khách được duy trì là chờ co tới khi nào khách tự động đứng lên xin về, rồi mới…

Thấy Đạt nhìn đồng hồ Hà cũng vén tay áo xem, nàng nói giờ:

-Ba giờ kém mười lăm. Công việc mà anh đã nói sẽ thực hiện vào lúc ba giờ, anh nên chuẩn bị để kẻo trễ! Còn em, em cũng cần về, về để trông coi nhà, vì cả nhà ai cũng đi chùa cả.

Nghe Hà nhã ý xin về, Đạt trầm ngâm trong giây lát rồi thuận ý nhưng, không kém phần lịch sự tỏ lời chân thật:

- Về hả? Ừ, muốn về thì cứ việc, còn muốn ở lại xem văn nghệ thì ở, tự do, không ai ép. Văn nghệ tối nay hay lắm đó, ở lại đi! Hay nhất là vở kịch “năm người mù rờ voi”.

Hà không đáp lại, nàng đứng lên, mang xắc vào vai, đưa tay lên vuốt mái tóc mai hai bên má cho nằm gọn vào mép tai, mím môi trong trạng thái tư lự, rồi quyết định:

- Em về thôi!

Nàng nói giọng trầm buồn. Đạt cũng đứng lên góp phần tư lự. Chàng đưa tay ngắt một lá Bồ Đề già nua ngang tầm mắt, măng mê, xoe tròn cọng lá giữa hai ngón tay cái và trỏ, mở lời:

- Rất tiếc là hôm nay, vì tôi bận nhiều việc, nên sự chia xẻ đạo lý của chúng ta không được tiếp tục, tạm ngưng, xin hẹn vào dịp khác, mong cô thông cảm cho nhé!

Trên lối đi ra cổng, không ai bảo ai, hai người tự mình bước thật chậm, song hành với nhau như để níu kéo thời gian đi chậm lại được chút nào hay chút đó trước khi chia tay. Nên lý do đi chậm của Đạt, vì chàng muốn tặng cho nàng một ân huệ bằng cái gọi là không nỡ buông xuôi quay mặt để cho nàng ra về một cách đột ngột và cô đơn. Còn Hà, sự chậm của nàng, vì nàng đang thấy trong lòng từng mảng trống vắng. Chúng đang vùng dậy, gặm nhấm tâm tư nàng, nên đi chậm của nàng là sự cố tình vớt vát thêm vài ba khoảnh khắc nữa bằng cách yêu cầu Đạt nói ý nghĩa “người mù rờ voi” để cho đôi chân chậm bước của nàng được tồn tại một cách hợp lý.

- Ý nghĩa của năm người mù rờ voi là gì, hả anh?

- Đề tài này cần phải có nhiều thì giờ mới nói hết được. Tuy nhiên, tóm tắt gọn đại khái như thế này: “Nghĩa của nó là biểu tượng cho hai hạng người đời cũng như đạo bị các lực tham dục, si mê, bòn sẻn, ích kỷ, sân hận, chấp ngã, kiến chấp, v.v… Những thứ đó, Đạo Phật gọi là vô minh. Vì chúng có năng lực dắt dẫn con người tạo tác ra những nghiệp ác. Chúng là bức màn che khuất trí tuệ con người. Xin nhớ trí tuệ khác với thông minh đấy nhé! Vì trên đời này có nhiều người học rộng, đổ đến văn bằng tiến sĩ nhưng, tâm họ chất đầy những vô minh đó, nên ngoài xã hội họ tranh nhau danh vọng chức tước, họ dùng nhiều thủ đoạn sát phạt nhau, hạ bệ nhau vì quyền lợi … Còn người trong đạo Phật, một số ít mang nhãn hiệu Phật giáo, mượn hình thức sinh hoạt của Phật giáo mưu cầu lợi nhuận. Cả hai hạng người vô minh này đều đeo cặp kính màu vô minh. Với người đứng ngoài hành lang của tòa nhà Bát Nhã của đạo Phật mà nhìn vào đạo Phật bằng cặp kính màu vô minh của họ, nên họ cho rằng: Đạo Phật là : Khoa học, siêu hình, luân lý, bi quan, yếm thế xa lánh cuộc đời … Còn người mang danh Phật tử đứng trong lòng chánh điện ở các chùa, họ không thấy toàn bộ giáo pháp của đạo Phật là Nhứt thừa, họ không thấy thực chất nguyên lý giải thoát của đạo Phật mà họ chỉ thấy con đường tục đế đem đến phước báo do pháp này, tài lộc do pháp kia. Khi họ được hỏi đến mục tiêu của Đạo Phật, thì mỗi người trả lời mỗi cách: nào là chỉ có cầu siêu, chỉ có tụng kinh cầu bình an … Đến học thiền thì lại thấy thiền của chân sư này thua kém chân sư kia, không thấy nước trong các đại dương cùng một vị mặn, không thấy toàn bộ nền đạo lý của đạo Phật chỉ có một vị giải thoát.

- Ra sao cô, đã rõ phần nào chưa?

Sau lời hỏi Hà, Đạt dừng chân lại như để muốn nghe rõ sự trả lời của nàng. Hà cũng ngưng bước, quay người lệch qua phía Đạt, dưới ánh nắng rực rỡ nghiêng bóng của buổi xế mùa hè làm cho đôi mắt đen tròn của nàng nheo lại và nhay nháy khi nàng nhìn lên trước mặt Đạt xác nhận:

- Em đã hiểu về phần vô minh, nhưng về con số em không hiểu lý do tại sao không nói bốn, ba hay hai người mù rờ voi mà lại nói năm người mù rờ voi?

- Hay đấy, người thông minh có khác. Đạt gật đầu khen Hà.

Đạt bậm môi, nhìn lên cổng chùa, nhíu mày trên đôi mắt như để tìm câu trả lời. Sau đó mấy giây chàng gật đầu nhìn Hà, mở tròn xoe đôi mắt, tuần tự:

- Sở dĩ Phật lấy con voi làm tiêu điểm để cho năm người mù rờ vào. Tại vì con voi là con vật có hình vóc cao, to lớn, nên năm vóc của nó (vòi, hai chân trước, hai chân sau, mình và cái đuôi) cũng to lớn. Từ vóc này đến vóc kia có khoảng cách gần như riêng biệt dễ làm cho người mù rờ vào khó mà phân biệt, biết được toàn bộ con voi. Đó là lý do thứ nhất Phật lấy con voi. Lý do thứ hai Phật dùng năm người mù với nhiều ý nghĩa sau đây: trước hết ta thường nghe người đời chửi nhau, nguyền rủa nhau bằng những lời: “mấy thằng quỷ sứ, cái đồ ngũ quỷ, bọn ngũ quỷ”. Nghe ngũ quỷ chứ không ai nghe nói tứ quỷ, tam quỷ bao giờ. Quỷ là một trong sáu loài chúng sanh (Trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ và súc vật). Quỷ đứng hàng thứ năm trong sáu loài. Tánh tình của loài quỷ rất là hung ác, bỏn sẻn, tham lam, ngu muội … Trong sáu loài chúng sanh đó, có một loài tính tình hiền lành, có trí hiểu biết, khôn ngoan, làm chúa tể, ngự trị muôn loài trên quả đất này. Đó là loài người, hàng thứ hai trong sáu cõi. Cho nên, con người trên trần gian này, người nào đi ngược lại bổn tánh vốn hiền lành và trí hiểu biết của mình, thì người đó là hiện thân của loài quỷ. Mặc dù thân thể là con người nhưng tâm địa của họ như là loài quỷ.

Hễ nói đến chúng sanh là nói đến vô minh, vì vô minh mới làm thân chúng sanh ở sáu cõi. Tuy nhiên riêng loài người, dù có vô minh nhưng, bản tánh vốn hiền lành, có trí hiểu biết phân biệt chánh, tà, sai, trái. Nên đức Phật nói: “loài người dễ tu và có thể thành Phật hơn là các loài khác”. Sở dĩ con người hung hăng. tàn bạo, tham vọng, si mê … là do vô minh trổi dậy, dắt dẫn con người vào con đường ác. Mỗi bản thân của một con người có chứa đủ hai thứ: Phật tánh và vô minh. Nếu một trong hai cái lực đó, cái nào mạnh, cái đó sẽ thắng, phát triển, vươn lên. Dĩ nhiên cái thua sẽ bị cái thắng đè bẹp và tiêu diệt. Tức là vô minh thắng, Phật tánh bị chôn vùi, che khuất. Ngược lại, Phật tánh được phát triển, vươn lên, thì vô minh sẽ bị dập tắt và tiêu diệt. Cả hai thế lực đó bị chôn vùi hay được phát triển, giai do năm giác quan bên ngoài (mắt, tai, mũi, miệng và thân thể) tiếp xúc với sáu cái lực hấp dẫn của cuộc đời (màu sắc, âm than, hương vị thơm tho, mùi vị ngon ngọt, đắng cay, cảm xúc và các pháp). Nếu ý thức bên trong đối với một con người có trí tuệ, người ấy đã và đang dùng giáo pháp Phật chận đứng mọi tham muốn của mắt, của tai, miệng mũi và thân. Không cho chúng đắm nhiễm theo lục dục đó, tức là không cho tội lỗi và vô minh trỗi dậy, phát triển. Ngược lại, với con người không có trí tuệ Phật, nên năm cái giác quan đó cứ chạy theo sáu cái dục hấp dẫn của cuộc đời cùng sự đồng tình của ý thức bên trong. Từ đó vô minh của họ ngày càng phát triển làm cho tâm trí của họ bên trong bị đui mù, ngu muôi5, u mê.  Chính những con người như thế là người mù, ngu muội, u mê. Chính những con người như thế là người mù, họ đồng dạng với loài quỷ, từ hàng thứ hai của nhân đạo xuống đứng chung với hàng thứ năm của loài quỷ. Dù thân họ là thân người nhưng có mắt mà không thấy chơn lý, có tai mà không nghe những âm thanh huyền diệu của Phật giáo. Cho nên, năm giác quan của con người bị sáu cái dục của cuộc đời dắt dẫn làm cho tâm trí sanh khởi các nhân tội lỗi khiến cho thân tạo tác các hành động bất thiện được tiêu biểu cho năm người mù rờ voi.

Ngoài năm giác quan ra còn có năm cái dơ nhớp, gọi là “ngũ trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược”. Năm thứ dơ nhớp này ngự trị hiện hữu ở tâm thân năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) của con người. Vì chúng mà con người sanh tâm vọng chấp thân con người là có thật, sanh lòng ngã mạn, kiến chấp … Cho nên, năm cái trược và năm uẩn cũng được tiêu biểu cho năm người mù rờ voi.

Đạt vừa nói hết câu: “… năm uẩn cũng được tiêu biểu cho năm người mù rờ voi”. Chàng im lặng, quay người, hai tay vòng lên ngực, đôi mắt nhìn xuống theo chân tiến bước. Hà cũng theo đó mà tạo độ hình song song nhịp bước ngang hông bên Đạt.

Để cho sự im lặng không trôi qua, Hà hỏi đùa:

- Như vậy hễ có người tâm bị mù, thì phải có người tâm bị chột chứ anh? Tâm muø, tâm chột đâu phải chỉ dành riêng cho người ngoài Đạo Phật trong việc nghiên cứu Phật pháp đâu mà có cả người Phật tử đang tu học nữa chứ?

- Ý cô muốn nói trong giới Phật tử chúng ta, tâm của họ, một nửa sáng, một nửa tối, phải không?

- Đúng vậy.

- Ví dụ vài trường hợp xem nào?

Hà nhìn Đạt mỉm cười:

- Theo em hiểu, trên bước đường tu tập giáo pháp giải thoát của đạo Phật, tâm con người tu tập là phải xả bỏ hết, đừng vướng bận vào một sợi dây vô minh nào cả. Nếu còn một chút hỷ lạc trong tâm, tâm đó là tâm bị chột. Chẳng hạn tâm đang thấy ngã tướng của vạn hữu được có là do duyên sinh mà có danh, diệt. Nhưng khi thuyết pháp được cử tọa vỗ tay, lòng liền cảm thấy vui sướng.

- Tâm ngộ định lý duyên sinh có sanh, diệt rồi lại vui sướng như vậy là tâm mù, như cây đèn bị tắt bởi gió. Hiện giờ tâm cô mù, hay chột?

- Em hả? Chắc là quá mù rồi! Em đang mù đây nè! Hà vừa nói vừa cười.

Đang đi, chợt thấy Minh, em nàng từ ở phía sau đi lướt tới trước mặt, Hà gọi lớn:

- Minh, xe chị đâu rồi?

Minh đứng lại quay mặt lui, đưa cánh tay phải lên, và bắt ấn cam lồ chào Đạt trong tư thế đứng nghiêm. Đạt cũng đưa tay lên, bắt ấn chào đáp lễ. Hà liền giới thiệu:

- Đây là Minh, em của em.

- Vâng, tôi biết em này, em ngoan lắm!

Không ai bảo ai, mọi người tự động đứng tránh qua bên đường. Vừa đứng vào mép lề đường, Hà hỏi Minh lần nữa:

- Xe chị đâu?

- Xe chị để trong kia kìa.

- Chìa khóa đây, em vào đem xe ra đây cho chị.

Trong thời gian chờ đợi Minh đem xe ra, Hà nhã ý:

- Với em, thỉnh thoảng đọc sách Phật pháp, còn đường tu tập hoàn toàn con số không, vì bận việc buôn bán. Và hơn nữa không quen với ai giỏi về tu tập, nhất là môn hành thyến. Nếu anh có tâm Bồ Tát làm hạnh nguyện giác tha, thỉnh thoảng em  đến anh để nhờ anh chỉ cho cách thức hành thiền, được không?

- Đâu có dám múa rìu qua mắt thợ! Muốn vậy cô nên tìm đến các vị sư. Vì vị sư nào cũng đều là thiền sư cả.

- Anh cũng là sư vậy, vì nghĩa của chữ sư đâu phải chỉ dành riêng cho giới Tăng bảo đâu! Nó còn chỉ cho bất cứ ai đem sự hiểu biết của mình về khoa học kỹ thuật, văn chương, đạo lý thánh hiền, giáo pháp Đạo Phật … nói cho người chưa hiểu được hiểu. Do vậy chữ “học” là nghĩa của người chưa hiểu học hỏi ở người đã hiểu. Chữ “Sư” ở người hiểu nói ra sự hiểu của mình cho người khác nghe. Đúng với nghĩa ấy, chính anh là Sư của em từ sáng đến giờ đây nè! Vì anh đã cho em thêm sự hiểu biết về khế lý Phật pháp. Như vậy, thay vì tam nhơn, ở đây chỉ có nhị nhơn đồng hành, tức hữu Đạt Sư. Chứ còn gì nữa mà anh từ chối!

- Vào Hội Cư Sĩ hồi nào mà cô nói rành mạch lý nghĩa giống như các anh trong khối tu học của Tổng Hội không bằng!

Hà nhìn xuống đôi bàn chân, lắc nhẹ người qua qua lại lại, làm cho tà áo lung lay trong nắng. Rồi đứng yên đưa mũi giày của chân phải xỉa tới xỉa lui lên sỏi đá trong bóng râm ngắn ngủn do thân nàng tỏa xuống trong nắng xế. Rồi nàng ngược lên ngỏ lời cầu xin:

- Anh, cho em xin địa chỉ của anh, để lỡi ra hôm nào đẹp trời, có dịp đi ngang qua làng Mía, vào thụ giáo với anh thêm vài pháp môn nữa?

- Vấn đề địa chỉ hả? Thôi khỏi, đâu có xa xôi ngàn dặm gì mà cho! Làng này, xã nọ cách nhau không xa, chỉ mất một giờ đi bộ, mất nửa tiếng đi xe gắn máy. Một xóm nhỏ trong một làng nhỏ ai mà chả biết nhau, họ biết rõ nhau từng tánh tình, tưng lời ăn tiếng nói. Do vậy, khi nào cô đi qua làng Mía, đến xóm dưới, hỏi nhà bà giáo Hương Lộc, ai cũng biết. Dễ lắm, nhà có cổng sắt, sơn màu xanh, có hai cây điệp ta ở hai bên cổng. Được rồi, hôm nào cô có dịp đi về phía Phong Lan, ngang qua làng Mía, xin mời cô ghé nhà để xem hoa cho vui. Tôi có trồng nhiều loại hoa Lan, Hồng, Quỳnh và Sứ trắng được trồng trong chậu. Về cây ăn trái, có ổi, sa-pô-chê mùa này chúng sai trái lắm, vì loại cây chịu nắng.

Nhìn trạng thái của Hà như có vẻ tiêu cực, không còn để ý đến lời nói của mình khi mặt nàng quay vào hướng trong chùa. Đôi mắt to đen tròn của nàng nhìn đăm đăm vào đó như thể đang theo dõi một động tác nào đó của ai đang xảy ra. Đạt ngưng nói và luôn thể cũng đưa mắt nhìn vào, thấy Minh, em nàng đang cỡi xe trên đường từ chùa ra.

Tư thế đồng tình yên lặng của Đạt đã làm cho Hà sực tỉnh trở về với thực tại. Hà nhìn Đạt, mặt nàng trở nên biến sắc ủ dột. Có lẽ nàng đang cảm thấy có sự mất mát về tình cảm, sự chia tay sắp đến, hết lý do tồn tại theo định luật vô thường, nên thân nàng hiển lộ trạng thái tiu nghỉu, yếu đuối. Đúng như nàng đã thú nhận trước Đạt: “tâm em đang mù đây nè”. Tiếng máy nổ của chiếc xe Honda C50 càng lúc càng nghe rõ đến gần, thúc giục sự chia tay sắp sửa xảy ra.

Chẳng mấy chốc chiếc xe Honda đã đến ngừng trước mặt Hà. Minh tắt máy, hai tay vẫn nắm chặt ghi đông để xe đứng yên. Hà liền bước tới, lấy ví trên vai, bỏ vào giỏ ba ga ở trước xe, rồi quay qua nhìn Đạt trong tư thế nghiêm chỉnh như người cấp nhỏ gởi điều gì lên kẻ lớn:

- Anh Đạt, bây giờ em xin về, cảm ơn trước về lời mời của anh. Và từ sáng đến giờ, trong chuyện trò trao đổi về giáo pháp, em có điều gì làm phật lòng an, xin anh niệm tình tha thứ cho. Trước khi ra về, em kính chúc anh thân tâm thường an lạc, Phật sự viên thành.

Đạt đứng thẳng, hai tay chéo sau lưng, nhún người, mặt nhìn nghiêng, miệng tươi cười.

- Cô đâu có gì mà tôi phải tha thứ! Xét ra tôi là người được cô tha thứ mới phải. Theo tôi thấy vậy! Tôi cũng xin chúc cô thân tâm thường an lạc, trẻ trung và vạn sự cát tường. Có dịp chúng ta sẽ gặp nhau và trao đổi tiếp. Thượng lộ bình anh nhé!

Nói xong, Đạt đưa tay lên ra hiệu chào tạm biệt, rồi đi thẳng vào còn đường bên hông chùa.

Hà đưa hai tay vào ghi đông khi Minh buông ra. Nàng ngồi lên xe, sửa lại tà áo trước, sau, đưa chân phải đạp máy nổ trong vài nháy mắt. Rồi nàng rú ga, xe vọt nhanh ra cổng tam quan, để lại làn khói lam chìm lặn trong nắng chiều.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BỐN

 

H

à được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đạo đức Phật giáo, nên tình yêu của nàng có trí tuệ hướng dẫn hành động trầm lặng. Nếu không nói là đơn phương thu nhập niềm an lạc thường trực vào lòng khi tâm thức và năm cảm quan cùng tương quan với nhau trước lục trần. Tức là thân tâm an trụ vào công việc sinh hoạt, cảnh vật, hoa lá, cỏ cây, bầu trời lúc nắng, lúc mưa, lúc gió nhẹ, khi bão tố phong ba… theo sự hằng chuyển liên tục tự nhiên của ý thức bên trong một xác thân ngũ uẩn phàm phu có trữ tình vùng dậy, tư duy, thổn thức hướng về hình bóng Đạt. Đó là điều ắt phải của lứa tuổi mà mặt sinh lý và tâm lý đã trưởng thành đều có những quyền tự do tư tưởng, hành sử quan hệ tình ái… Tự do vẽ ra cho mình một bức tranh hành động được treo trong căn phòng tâm thức như là một bản đồ bay của hoa tiêu. Bức tranh có ngọn núi lửa tình đang hừng hực bốc cao với những nham thạch giận hờn rơi tỏa, làm cháy những cỏ cây lân cận. Có con đường mòn quanh co mà trên nó, cặp nam nữ song hành nhẹ bước dưới ánh trăng mờ trong đêm thu bầu trời có mây. Ban ngày có đám mây xám, đen đang vần vũ ở phía trời Tây, cùng với tiếng sấm sét ghen tuông của các thiên lôi tình ái giáng xuống không gian làm vang rền như những tiếng pháo binh của QLVNCH giáng xuống đầu quân Việt Cộng lúc chiều hôm.

            Nhưng bức tranh tình ái của Hà thì khác. Nàng vẽ nó bằng những phẩm chất văn hóa dân tộc và khế  lý Phật pháp sẵn có trong tâm thức của một người cư sĩ học Phật.

            Nàng treo nó lên bức tường của căn phòng tâm thức của nàng. Bức tranh được nằm gọn trong một cái khung có viền chung quanh bằng năm giới luật của người cư sĩ tu tại gia. Nên trên bản thể của nó tự có suối nước mát trong đang lượn quanh các nương dâu đầy màu xanh của ngô, khoai, rau, đậu… Có ngôi chùa mái cong ẩn mình thấp thoáng sau hàng cây dương liễu cao vút, lắc mìn trong gió mai, phát ra tiếng rì rào. Ở đó, khi men chiều phủ xuống lúc hoàng hôn, là có tiếng chuông chùa ngân vang vào không gian tĩnh mịch. Ở đó, khi ánh triêu dương ló dạng ở vừng đông, là lúc bầy chim sơn ca ríu rít, hót líu lo dưới mái hiên chùa.

            Đúng thật, nàng là con chim sơn ca thực thể trong bức tranh. Vì tâm hồn nàng thực tại bỗng dưng hiện lên những nốt nhạc có lời ca đời, đạo từ sau những phút gặp gỡ Đạt. Lời ca, tiếng hát không giới hạn ở ban ngày hay chiều hôm. Nàng ca hát một mình trong rảnh rỗi, khi làm việc, mà công việc chỉ cần động tác của đôi tay hơn là sự chú ý của tâm thức.

            Hà đang ngồi giữa nhà bếp, trong cái ánh sáng lờ mờ khi nắng chiều không còn chiếu qua cửa sổ, làm cho bốn bức tường đen xám cũ kỹ bởi khói bếp càng xám hơn. Hai tay nàng xếp gọn lại những tảng đường màu nâu, rắn chắc vào cái thẩu nhựa trắng lớn, là việc làm của nàng sau khi tan chợ chiều đưa hàng về. Còn miệng nàng hát: “Anh có nghe mùa thu, mầy giăng, lá đổ và anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương…”

            Thấy Minh dừng xe đạp trước cửa nhà bếp, thằng Khánh thòng hai chân xuống đất, bước lui khỏi yên sau xe, tay nó cầm cây cờ đội Kiền Trắc màu xanh chữ vàng có viền tua trắng chung quanh. Hà ngưng hát khi Minh và Khánh bước vào. Hà nhìn đồng hồ trên tay, hỏi lý do:

            - Sao hôm nay chúng mày về trễ vậy? Mọi chủ nhật là về ba giờ, có trễ lắm là bốn giờ, bây giờ là bảy giờ mới về? Làm cho tao phải vất vả chất hàng lên xe ba gác, rồi một mình đẩy về nhà!

            Minh dựng xe đạp vào vách, quay nhìn Hà:

            - Còn mẹ đâu mà một mình chị làm?

            - Vào lúc trưa nay, ba cỡi xe đến chợ, chở mẹ về nhà để đi ăn cổ tại nhà bác Bảo Tịnh.

            Minh từ nhà trên bước xuống, sau khi thay quần áo Phật tử, bước tới gần Hà:

            - Chị cần em phụ giúp gì không? Em cũng muốn về sớm để chất hàng với chị lắm chứ, nhưng vì anh Đạt và các anh trong đoàn đột xuất tổ chức tiệc liên hoan mừng tụi em được trúng tuyển kỳ thi giáo lý lên cấp vừa rồi ở trại A Dục, thành ra giờ này tụi em mới về đấy chứ!

            Nghe nói đến Đạt, nét mặt nàng trở nên vui tươi hơn lúc nào hết, vì nàng đang nghe dòng suối tình đang chảy trong lòng. Như tự cảm thấy xấu hổ hay là niềm sung sướng, nên nàng mỉm cười cùng lúc nhìn thoáng nhanh qua mặt em nàng, làm cho Minh nguýt nàng bằng ánh mắt bực tức, rồi bỏ đi ra cửa.

            Như không cần để ý đến thái độ ghét bỏ của Minh, tâm thức nàng trở về thực tại, tiếp tục lấy các bao kẹo dừa bỏ vào bao ni- lông lớn trong trạng thái trầm lặng, nếu không nói là tâm thức nàng đang tư duy về Đạt. Tư duy là tiếng nói bên trong không thành lời, nó thường nằm trong trái tim ngục tù giá lạnh khi người tình đã mọc cánh bay ra khỏi tầm tay vì nghệ thuật yêu của đối tượng này thua kém đối tượng kia. Nhưng tư duy của Hà là con chim sơn ca đang cất tiếng hát từ cành này sang cành khác. Nó còn bay xa hơn thế nữa. Nó bay đến gần Đạt, rồi bay về thực tại, hót vang:

            “Một hôm, một hôm nhân dịp vía ngài, cùng mẹ đi lễ Phật, dâng vài hoa sen…”

            Nghe Hà hát, Minh từ sân bước vào với vẻ mặt hầm hầm:

            - Lúc này sao bà yêu đời quá vậy? Cứ nghe bà hát hoài! Tình quá hả! Sao không hát “cùng Đạt đi lễ chùa dâng vài hoa sen” mà lại hát “cùng mẹ”?

            Nghe Minh phê phán, Hà phán lại một tua:

            -Chứ xiu mày! Đời đáng yêu dại gì mà không yêu. Còn thân người, còn hơi thở là còn yêu. Yêu đâu phải là cái tội khi con người trao cho nhau chữ Tình có đạo đức Phật giáo. Tình là nguồn sống của con người, nó là chất liệu nuôi dưỡng thân và tâm con người để phát triển nhiều mặt, trong đó có mặt đạt đạo Bồ Đề, đúng với Niết Bàn không ly khai với sinh tử khổ đau. Bồ Đề có trong phiền não. Yêu chính là thương, thương chính là yêu, cả hai đều là Tình. Tình, không những chỉ riêng ở con người mà có cả ở loài vật nữa. Ta vẫn biết rằng trong hai thứ tình thương và yêu, thứ nào cũng có phiền não, khổ đau và hạnh phúc trong đó. Vì vậy, ta phải nhẫn nại giáp mặt cả hai và nhìn thẳng vào chúng bằng con mắt Phật để gạn lọc khổ đau ra mà nắm lấy hạnh phúc. Đó là con đường trung đạo cho mọi thứ tình. Với con đường trung đạo là không vượt quá thương nhau lắm, hay ghét nhau lắm, nếu ai vượt quá hai thứ đó sẽ bị cắn nhau đau. Đau cho đến nỗi, có lúc phải xua đuổi nhau. Nhưng vì, tình là một chủng tử nghiệp duyên về nợ nần vay, trả, nên ra đi có khi trở lại tình cũ, hoặc là tìm đối tượng mới. Đúng thật, tình là sự sống của con người, cho nên “tình là cái chi chi, rồi cũng chi chi với tình”. Nhưng chi chi với tình, không có nghĩa là làm cho tình bị héo hon bởi lời nói hay dùng bàn tay dày vò như vò một đóa hoa trong tay và không tạo ra những trạng thái bâng khuâng để rồi: “mấy sông anh cũng lội, vạn đèo anh cũng qua”. Nên lúc gặp nhau, hành động với nhau như kẻ điên, quên cả đạo lý trần gian, trạng thái ân ái thiếu nghệ thuật yêu có thẩm mỹ của loài người, nếu không nói là không có chánh niệm.

            Đang nói thao thao tự nhiên Hà nín, đưa mắt nhìn vào từng thứ hàng, rồi đứng lên nhìn Minh, đưa tay chỉ vào mấy thẩu đường, kẹo và các thùng bột…, nói:

            -Em bưng mấy thứ này bỏ vào xe ba gác giùm chị, để kẻo sáng mai có thể quên.

            Trong lúc Minh đem các thứ bỏ vào xe, Hà đi đến cái sạp tre ọp ẹp tại góc nhà bếp, ở đó có chứa hàng dự trữ. Hà đem lại để giữa nhà những thứ đèn bạch lạp, chao lon, xì dầu… Xong, nàng đến bật công-tắc đèn bên vách gần bếp. Ánh sáng của bóng đèn típ bốn tấc nằm giữa cây đà ngang bắt qua giữa nhà không có trần được chan hòa với ánh sáng nhá nhem của không gian bên ngoài chiếu vào qua cửa sổ khi mặt trời vừa tắt nắng, đang lịm dần vào màn đêm, cùng với màu sắc của các bức tranh vằn vện có hình thù dị dạng trên bốn vách tường cũ kỹ tạo nên một thứ ánh sáng trăng trắng và loang lỗ. Hà ngồi chồm hổm trước các món hàng dưới ánh sáng ấy, lựa và cột lại từng món hàng để bỏ vào xe cho việc buôn bán ngày mai. Nàng loay hoay không hở tay một cách nhẹ nhàng với đôi mắt nhìn xuống, an trú vào việc trong im lặng. Bỗng Hà nói khẽ: “Làm ăn thế này, chết thật! Đậu đen và nếp lộn xà ngầu với nhau, may mà thấy được, chứ nhỡ ra có người mua, lúc ấy chết dở!” Rồi nàng bảo Minh: “Đến  cái gác lấy cho chị cái nia để chị đổ nó ra và ngồi đây lựa đậu ra với tao”.

            Để cho không thấy thời gian lâu và quên đi sự nhọc nhằn của đôi tay bằng cách nói chuyện với nhau. Hà bắt chuyện:

            - Em đã hiểu về lý tưởng của tình yêu có đạo đức Phật giáo mà chị đã nói khi nãy chưa?

            - Em hiểu chứ, nhưng em có thắc mắc.

            - Nói đi!

            - Theo em hiểu, tình yêu đâu phải nằm chờ trái “sung tình yêu” rụng xuống mà lượm! Mà phải hành động bởi thân, miệng do ý thức chỉ đạo trong giao tiếp, dĩ nhiên là phải đứng đắn để gây nhân làm duyên cho cuộc tình. Kể cả cái tình trong hóa độ chúng sanh của các bậc Tăng bảo hay cư sĩ trên cơ sở hành động lân mẫn. Vì nghĩa của chữ duyên không những chỉ ở nét mặt đẹp và cơ thể mà có cả lời nói nữa. Do vậy, có nhiều người có nét mặt không đẹp mà được lọt và mắt xanh của đối tượng do bởi lời nói có duyên. Quen nhau mà cứ “kính nhi viễn chi” hoài thì làm sao có sự hiểu nhau để hình thành trên mọi lãnh vực ở đời và đạo. Như ong kia mà không đậu trên hoa, thì tổ của ong làm sao có mật!

            Nghe Minh nói, Hà cười:

            - Bài thi giáo lý lên cấp vừa rồi được bao nhiêu điểm mà hôm nay mày lý luận sắc bén thế? Và có cả chữ Hán nữa, hay lắm!

            - Chị chưa thưởng cho em đấy nhé! Thưởng đi, em mới nói.

            - Được rồi, chị sẽ thưởng cho em một cái quần Jean, hiệu Levis.

            - Chị biết không, em được đến những một trăm điểm lận, nên được xếp hạng tối ưu đó. Trong giờ phát chứng chỉ, các anh trong BHDTU gọi em ra đứng ở giữa các đoàn sinh để các ảnh ban lời khen riêng cá nhân em và các anh huynh trưởng của GĐPT Lộc Uyển. Làm em run quá chừng khi những tràng pháo tay nổ vang. Và làm cho em run hơn nữa là lúc những lời ca thúc hối của các đoàn sinh bắt em phải trả lời câu hỏi của anh trưởng ban tổ chức hỏi em là học giáo lý cách nào mà làm bài giỏi như vậy. Em không trả lời mà cứ nghe cái âm thanh: “Ô kìa chị kia, cớ sao mà đứng tần ngần. Đứng hoài không nói. Chúng tôi yêu cầu chị nói. Nói giùm chị ơi! Ô kìa chị kia…”

            Hà ngắt lời:

            - Nếu trả lời, em sẽ trả lời cách nào?

            - Dễ thôi, có sao nói vậy, nhưng với điều kiện em không run kìa. Trước hết, em sẽ nói là do tinh tấn, chuyên cần học hỏi giáo lý của em. Thứ nữa, những vị thầy mà em đã học qua tại chùa vào những buổi tu học là: thầy trú trì, anh Đạt, anh Hải – Liên đoàn trưởng, Sư ông Nhất Hạnh, đại chúng Làng Mai và gần đây nhất là các bác trong khối tu học thuộc Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam. Nhờ đó, đề thi Phật pháp vừa rồi tại trại A Dục, coi như em trúng tủ gần hết. Chị biết không, câu chót “Tinh thần lân mẫn để giác tha như thế nào? Tại sao người Phật tử phải tích cực phát huy tinh thân đó trong mọi nơi chốn, mọi thời gian thực tại không hạn định?” Lúc đầu em hơi lúng túng, nhưng sau đó, em nhớ lại bài học mới đây nhất là bài “NHÂN VÀ DUYÊN TRONG HẠNH NGUYỆN HÓA ĐỘ CỦA CHƯ PHẬT VÀ BỒ TÁT” do các bác trong Tổng Hội Cư Sĩ về tổ chức tu học tại chùa cách đây năm tháng, nên em làm dễ dàng. Nhờ câu đó em mới được một trăm điểm. Còn mấy trại sinh khác, không đứa nào làm kịp. Có chăng, cũng không đúng hoàn toàn đâu!

            Minh vừa ngưng vài giây, Hà thắc mắc:

            - Khi hồi, chị nghe em nói thầy dạy giáo lý cho em có hội cư sĩ. Chị chưa nghe, thấy hội đó bao giờ?

- Lâu rồi, chị hai à! Hội cư sĩ được tổ chức tại các thành phố lớn và các tỉnh cả mấy năm nay rồi. Còn tại các quận, đang lần lượt tổ chức. Quận Phong Lan, chưa Phật Đà đã tổ chức Hội Cư Sĩ trước mình cả năm. Quận mình, chùa Bảo Quang do anh Đạt tổ chức Hội Cư Sĩ cách đây hơn năm tháng, anh Đạt được bầu làm Chủ tịch điều hành. Trong buổi lễ ra mắt, có các bác, anh chị trong ban điều hành và chỉ đạo thuộc Tổng Hội Trung Ương vè tham dự. Thởi gian không lâu sau đó, anh Đạt mời khối tu học của Tổng Hội về chùa tổ chức tu học. Do vậy, mà em mới có bài học Nhân và Duyên đó. Chị biết không, với tư cách Chủ tịch điều hành Hội Trung Ương, trong phần phát biểu, anh Lê nói rằng: “Hội cư sĩ Phật giáo Việt Nam là một tổ chức phi chính trị, được quy tụ toàn thể những người nam nữ Phật tử có ý chí muốn tu học Phật pháp để giải thoát sanh tử. Bên cạnh đó, không quên bổn phận phụng trì đạo pháp bằng khả năng vật chất và trí tuệ của mình trên cơ sở không phân biệt tông phái. Hội cư sĩ từ những người Phật tử của các tông phái ngồi lại với nhau, gọi là đoàn ngũ hóa để cùng nhau trợ duyên tâm pháp cho nhau về việc phát triển trí tuệ. Do vậy Hội cư sĩ còn có thể gọi là hội tu, hội trí tuệ. Vì mỗi người cư sĩ trong hội là một viên ngọc thật, chứ không phải ngọc tiêm. Anh Lê nhấn mạnh: “Những viên ngọc được kết lại thành xâu chuỗi ngọc không giới hạn, hễ có thêm viên ngọc được kết vào xâu chuỗi ngọc, thì chuỗi ngọc ây sẽ dài và rộng ra. Sự việc đã qua hai mùa nắng hạ và lá rụng rồi mà chị hai không hay biết gì cả! Có phải chị đang ngủ quên trong căn nhà tình ái, phải không?

Nghe đến căn nhà tình ái, Hà liên tưởng đến hình bóng Đạt. Nàng ngồi im, hai tay nàng lựa từng hạt đậu với trạng thái như mỏi mệt. Rồi bỗng dưng, nàng đứng lên, vén mái tóc, lấy bao giấy đựng hàng bằng xi măng, xếp lại, quạt nhẹ lên đôi má. Trong khi mọi vật bên ngoài không gian đang đưa tiễn mùa thu và đang âu sầu phải làm sự đón chào bất đắc dĩ cái mùa đông giá lạnh mà nàng lại cảm thấy như có những hạt mưa tình của đầu mùa hạ đang rơi vào lòng, làm cho đôi má nàng bỗng dưng có lửa hạ.

Xong, nàng ngồi xuống, đôi tay tiếp tục công việc có phần uể oải khi đôi mắt nhìn xuống trong trầm lặng. Vì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên tâm thức nàng khi thì ra khỏi hành lang trí óc, đi lang thang đến các cảnh do tâm thức nàng sáng tạo, khi thì trở về lại thực tại thấy rõ từng hạt đậu trước mặt.

Tình yêu nào mà chẳng có mùa thu trong lòng, ở bàn tay, đôi chân, bờ vai, mái tóc…Vì mùa thu là mùa của tình yêu. Do vậy, với kẻ phàm phu tục tử ở cõi dục trần thế nhân này, ai cũng phải có một lần hay hơn nữa về sự giận hờn, khổ đau, rơi lệ trên vai người yêu hay âm thầm trên gối chiếc cô đơn, niềm nhớ thương da giết, sầu buồn lẻ bóng, cười lả lơi như vũ khúc tăng-gô, đi trong mưa ngâu, nhặt lá vàng nơi bãi cỏ công viên, ngắm trăng ngủ trong mây, bứt một chiếc lá không khái niệm khi hai người đứng bên bụi cây… của thuở tình yêu ban đầu hay tình giữa.

Nhưng với Hà, nàng khái niệm mùa thu bằng bước chân âm thầm giẫm lên lá vàng trong sân khi dừng chổi đứng nghe mùa thu đi vào sớm mai cuối thu có gió heo may lướt qua cành cây, ngọn cỏ trong vườn.

Chủ nhật nào, bốn mẹ con nàng cũng dậy sớm, duy chỉ còn ba nàng, ông Thông là còn ngủ. Cùng dậy sớm nhưng, mỗi người mỗi việc. Hai em nàng, con Minh, thằng Khánh lo phục sức sắc phục GĐPT để đi chùa sinh hoạt. Mẹ nàng, bà Thông lo chuẩn bị hàng hóa để ra chợ vào lúc chín giờ, giờ trễ hơn ngày thường, nhưng cũng phải dậy sớm, vì lo một vài thức ăn để sẵn cho chồng trước khi mọi người ra khỏi nhà. Còn Hà, nàng lo quét tước trong nhà, ngoài sân. Hà quét trong sân ngoài ngõ trước tiên, sau mới quét trong nhà khi mẹ nàng làm xong và đậy kín các thức ăn trên bàn.

Hà quét sân bằng những tàu dừa khô bó lại làm chổi, nên phải khom lưng xuống một chút, cùng với các động tác tích cực của chân, tay mới làm di chuyển nổi những chiếc lá vàng lì lợm cứ nằm đỏ mình khắng khít trên mặt đất bởi hạt sương mai của cuối mùa lá rụng. Lưng nàng khom như con Kangaroo đứng nhìn về phía trước trong tư thế chuẩn bị nhảy tới, làm cho mái tóc ra khỏi bờ vai, đong đưa trước ngực khi tay phải của nàng cầm chổi đẩy lùi những chiếc lá về phía trái trước mặt. Tay trái nàng gác ra sau lưng trên chiếc áo len màu nâu bó thân, thả vạt hai bên hông, đôi chân thủng thỉnh bước tới từng bước như điệu vũ: “Trông Kìa Con Voi…” mà sáng nào nàng cũng sô lô đóng vai quản trò với cỏ cây trong vườn.

            Hà quét những lá vàng nơi gốc khế, gốc dừa, cây mận, cây chanh… Quét từ trong sân ra ngoài ngõ nơi có hàng cây so đũa cao khẳng khiu bên hàng rào, đang thòng xuống những trái so đũa song đôi, lắc lư trong gió nhẹ như ngón tay của các vị thiên thần ngự trên cây đang đưa tay vẫy chào sự có mặt của nàng trong buổi sáng.

            Khi những chiếc lá được nhóm lại thành đống từng nơi, nàng chống chổi lên đất, đứng nhìn lên những chùm mận trắng ngà được thấy qua tia nắng mai sau những cành lá xanh thẫm một lúc không lâu, đoạn nàng bước đi, rồi miệng nàng trỗi lên khúc nhạc: “Nhìn những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng và lá rụng ngoài sân…”.

            Bất chợt thấy Minh dắt xe đạp từ nhà bếp ra để giữa sân chờ Khánh. Tiếng hát của nàng tự nhiên nhỏ dần, rồi tiếp theo là nụ cười nở trên môi, làm cho Minh lên tiếng:

            - Một ngày không gặp nhau như ba mùa thu đi qua (nhất nhật bất kiến như tam thu hề). Cả mấy trăm mùa thu rồi, không chịu đi thăm, còn đứng đó mà nhìn những mùa thu đi!

            - Thăm ai mày?

            - Xí, còn ai nữa, giả vờ!

 

            Suốt trên đoạn đường đẩy hàng ra chợ, cứ thường lệ sáng nào nếu có bà Thông đi cùng, bà đi bên cạnh không đẩy xe, chỉ vịn tay vào càng xe trong tư thế cảnh giác, sẵn sàng tiếp sức khi có sự cố nào làm cho chiếc xe dừng lại và lệch qua một phía bởi một trong hai bánh xe bị lọt vào lỗ chân trâu hay cán lên cục đất cứng trên đường. Nhưng hôm nay bà Thông lại buông càng xe, đi sau Hà một khoảng cách đến những chín, mười mét. Hà cứ mặc nhiên tiến bước theo tốc độ lăn bánh đều đều của chiếc xe, nàng không cần để ý có hay không có bà Thông đi bên cạnh mình, vì tốc độ mau hay chậm là do bàn tay của nàng đẩy.

            Sự lãng quên mọi vật hay con người bên cạnh mình là lúc tâm thức đi vào sự an tịnh hay là lúc đưa tâm hội tụ vào một tiêu điểm nào. Ở đây, tâm tư Hà đang tư duy về một vấn đề nào đó. Bỗng tốc độ từ từ chậm lại. Đây là lúc tâm thức của nàng đang trở về thực tại khi nảy sinh một ý niệm mong cầu cần có bà Thông đi bên cạnh. Hà nhìn lui như thể gián tiếp bảo mẹ nàng hãy đi mau lên để bắt kịp nàng.

            Vừa đến bên hông trái Hà, bà Thông lí nhí”

            - Hôm nay, sao con đẩy xe đi mau thế? Làm cho mẹ chả theo kịp!

            Không để ý đến lời than vãn của bà Thông, Hà đề nghị:

            - Mẹ, con thấy giây gai, giây kẽm, giây dừa gần hết rồi đó. Sau vụ mùa hè thu, người ta cần các loại giây để cột rơm, bó rạ khi được chở trên xe bò đem về nhà để cho trâu bò ăn vào đông xuân đến. Vậy, nên mua thêm. Các loại giây ấy chỉ có ở phía Phong Lan là nơi sản xuất, thì giá bán mới rẻ thôi, còn trên Sơn Khê đắt lắm!

            - Sao tháng trước mẹ bảo con đi Phong Lan để mua giây, con lại không đi?

            - Ừa, thì mai đi. Ô! Ngày mai chưa đi được đâu mẹ! Để thứ bảy tới, em Minh nó nghỉ học, nó phụ trách đẩy xe ra chợ với mẹ, chừng đó con sẽ đi bằng Honda.

 

            Hà chọn ngày thứ bảy đi Phong Lan đúng theo sách lược “nhứt cử lưỡng tiện”, tức là hành động một việc mà được lợi ích đến hai, ba. Vì những ngày cuối tuần và các ngày lễ, công chức nhà nước và học sinh được nghỉ ở nhà, nên Hà chọn ngày thứ bảy để đi mua hàng và gặp Đạt luôn một thể. Nàng biết chắc chắn Đạt sẽ có mặt ở nhà, vì trong thời gian này chàng thích ở nhà hơn khi được nghỉ. Ở nhà để giúp việc nhà cho mẹ chàng và đọc sách, ngồi thiền, chăm sóc hoa lá, cây vườn. Ngoại trừ ngày chủ nhật là ngày của tinh thần, Đạt phải đi chùa để sinh hoạt giáo vụ, nếu không nói là sau những lần tu học Phật pháp tại chùa, Đạt càng tích cực lo việc phụng trì đạo pháp hơn lúc nào hết.

            Đã là một con tim được cấu tạo bởi tứ đại hợp duyên nằm trong một sắc thân tuyệt tác ngũ uẩn phàm phu, ai mà không rung động vì tình, dù là tình gì. Con người mà không có sự rung động vì tình thì làm sao gọi là loài hữu tình! Tuy nhiên, điều quan trọng là có biết mình rung động hay không! Nếu người nào biết tâm thức mình rung động vì thương, yêu, ghét bỏ, giận hờn, tham vọng cực độ, kiến chấp… Vì sự rung động của tâm thức không phải chỉ dành riêng tình yêu, mà cho tất cả. Người ấy là kẻ tự thắng mình và sẽ thắng tất cả. Nếu như vậy, con người sẽ vượt thoát khổ đau và tội ác sau khi thấy biết tâm thức mình bị rung đôäng.

            Hà, nàng biết có hương tình đang bay vào lồng ngực của nàng chứ? Bay vào qua hơi thở sau vào, ra khi nàng đứng nhìn bầu trời, cỏ, cây, hoa, lá. Vì sự thấy biết đó mà nàng đã đặt trái tim của nàng trong căn phòng tâm thức. Căn phòng có hoa, có nhạc, có hình tượng Phật và Bồ Tát. Và điều khiển tâm thức của mình khi cần tư duy là tư duy về mọi vấn đề. Còn không, nàng đưa tâm thức nàng  trở về thực tại. Nàng đặt trái tim nàng trong căn phòng tâm thức như thế, không giống như trái tim ngục tù mà ta thường nghe nói đến. Vì nghĩa của ngục tù là khi tấm thân bị ngồi vào tù do tâm và thân gây ra tội ác. Nếu thân không ngồi vào tù ngục, thì tâm cũng tự mình ngồi vào cái ngục tù ở thân mình khi trái tim bị nghẹn ngào bởi sự phản bội của người tình, tâm hồn khổ đau khi cuộc tình chia ly, tâm tư giận hờn, điên đảo, ghen tuông, tâm thức bị lẩn quẩn sầu tình, ngồi ôm hận nhìn cuộc tình bay đi ra khỏi tầm tay.

            Vì chỗ thấy biết hương tình đang bay vào lòng, nên nàng đã cất lời ca khi đứng nhìn và tiễn đưa hơn một mùa thu đi qua và chọn cho mình một mùa thu đang tới trong lòng. Nàng sẽ đón rước nó vào ngày thứ bảy này.

 

            Thường lệ, sau bữa ăn tối, công việc của Hà là rửa chén bát; Minh lo lau bàn, đậy, cất nồi niêu còn thức ăn vào tủ bằng gỗ ở bên góc bếp. Nhưng hôm nay, sau khi ông bà Thông rời khỏi bàn ăn, duy chỉ còn lại ba chị em nàng. Hà ăn xong trước Minh và Khánh, nàng đứng dậy, lấy những bát, dĩa, chén, chồng lên nhau, rồi để đó, nàng ra vại nước ở ngoài sân trong mấy giây. Khi trở vào, nàng bảo Minh:

            -Ăn xong, em lo dọn dẹp nồi niêu và rửa chén, bát giùm chị, còn thằng Khánh phụ trách lo lau bàn, nhớ lau bàn bằng khăn nhúng nước vắt khô, không được lau bàn bằng khăn khô. Mai thứ bảy, không đi học, tối này tha hồ làm gì mà chả được! Vì ngày mai chị bận đi vài công chuyện, nên chị phải soạn một ít quần áo để ủi ngay bây giờ, chứ để mai thì không có giờ. Hai em có cần gì ủi không, đưa chị ủi cho!

            Không nghe thấy đứa nào trả lời, trả vốn gì cả, Hà lặng lẽ đi lên nhà trên, mở cánh cửa tủ đứng, lấy một ít áo quần, trong đó có chiếc áo dài màu xanh của đồng lúa. Cái áo mà cách đây hơn sáu tháng, nàng mặc nó đứng bên cạnh Đạt sau giờ đại lễ Phật Đản trong sân chùa Bảo Quang nói chuyện đạo tình với nhau. Nay nàng sẽ mặc nó lại lần nữa vào ngày mai đi thăm Đạt. Nàng không cần biết Đạt có để ý đến màu sắc của áo và sự mặc tới mặc lui hoài chiếc áo đó, hay không!

            Nàng đặt chiếc áo dài xanh màu lá mạ lên tấm vài lót trên bàn. Rồi bằng sự lưu ý vững chắc của tâm thức an trú vào chiếc áo, nàng điều khiển hai bàn tay búp măng trắng nõn trong các động tác; bàn tay phải bám chặt vào cái quai của bàn ủi, những ngón tay của bàn tay trái chằng lên vải áo để giữ vải khỏi di động khi bàn tay phải đẩy bàn ủi qua, lại, lên, xuống trên các tà áo nhiều lần, làm cho vải bốc hơi, xông lên một thứ mùi thơm của phái nữ có pha lẫn mùi xà bông bột Tide, mùi vải lâu ngày để trong tủ, mùi của nước hoa còn lưu lại phảng phất vào không gian bởi sức nóng cao độ làm phát ra những tiếng rắc rắc của loại vải xoa khi bị quá nóng mỗi lần Hà cầm áo lên để ủi qua mặt khác.

            Trạng thái yên lặng khi đôi tay làm việc, cái tâm không hẳn an trú duy nhất hoàn toàn vào mục tiêu. Vì nó như con vượn, nó ưa rời khỏi mục tiêu, chuyền đến những cảnh của nó trong nội thức khi nó sanh khởi ý niệm mong muốn hướng đến. Nó hướng đến, rồi nó trở về lại thực tại. Nó đi và về như con thoi. Cho nên, sự yên lặng không nói của Hà trong lúc đôi tay tạo tác hành động ủi áo quần, tâm thức của nàng suy nghĩ về một ngày mai tươi sáng. Nàng đang vẽ ra những hoạt cảnh khác nhau cho một ngày mai, ngày gặp lại Đạt. Nàng vẽ những cảnh ấy bằng cây bút suy tư của tâm thức. Trong những hoạt cảnh đó, nàng đã sắp xếp thứ tự từng cảnh một. Cảnh bằng lời nói chân thật, vui tươi và tế nhị, cùng với trạng thái khiêm cung. Cảnh nên nói điều gì và không nên nói điều gì với Đạt. Cảnh có trạng thái gặp lại Đạt, trước tiên phải như thế nào cho đúng lễ nghi của đạo tình. Và bao nhiêu những điều mơ ước khác cứ lẩn quẩn trong đầu óc của nàng làm cho tâm tư của nàng gần như quên lửng thực tại. Quên cho đến nổi, thay vì chỉ mất mười lăm phút là ủi xong chiếc áo. Đằng này, trên hai mươi phút mà nàng cứ loay hoay, lật qua, lật lại, vẫn chưa xong, làm cho Minh sanh lòng ngứa mắt, đến góp ý:

            - Chiếc áo bằng chiếc khăn tay, sao chị ủi lâu vậy? Ủi lâu chị không sợ cháy áo à? Vải xoa dễ bị thun lại vì nó có đến sáu mươi phần trăm chất lông hay ni lông, do vậy không nên ủi lâu và lửa quá nóng.

            Nghe Minh nói, tâm thức nàng trở về thực tại, an trú vào chiếc áo, Hà cầm nó lên:

            -Ủi nãy giờ mà sao chị vẫn thấy trên hai vai áo còn nhăn, chưa được thẳng lắm, là sao?

            -Còn nói “là sao” nữa, chị ủi lật bật quá mà!

            -Lật bật? Em muốn nói gì vậy?

            -Thì em nói lật bật, tức là tâm của chị bị rung động không có chánh niệm khi tay chị ủi áo. Chị cứ để tâm của chị chạy nhảy, nô đùa theo với cảnh của nó một cách tự do, khi chạy về, khi chạy đi, làm cho sự ủi áo của chị không được chính xác lắm. Một công việc mà không có tâm chỉ đạo cho tay, chân, công việc đó phải mất nhiều giờ mới có kết quả và có khi kết quả nửa vời không đúng kỹ thuật, phẩm chất. Cho nên, thân và tâm phải được hòa hợp an trú vào mục tiêu ở mọi sự việc đạo và đời trong tu niệm và sinh hoạt cho cuộc sống. Chị nên biết rằng, tâm con người như thể một đứa con trai, con gái thời nay thuộc hạng khó dạy vì nghiệp quả của nó chứa nhiều hạt giống đam mê ăn chơi, nên nó ít có mặt tại nhà với cha mẹ, cứ thích đi lêu lổng bên ngoài với bạn bè xấu ác. Nếu cha mẹ có dùng hết lời réo gọi nó đến năm lần, bảy lượt, nó mới về. Về tại nhà không lâu, nó lại tìm đủ mánh khéo nói láo với cha mẹ rồi lén đi nữa. Có khi dùng biện pháp mạnh bắt ép nó ngồi tại phòng để học bài hay đọc một bài giáo lý Phật, nhưng rồi nó cũng len lén bỏ chạy. Chị đang có đứa con đó trong tâm của chị đấy, mà chị không biết hả?

            - Tao có biết chứ!

            - Biết, nhưng tại sao không bắt nó hợp tác với bàn tay của chị trong việc ủi áo, mà lại để hai bàn tay của chị làm một mình? Nên vải áo không được thẳng cho lắm là đúng không có sự cộng tác của đứa con tâm thức.

            Hà nhìn Minh, cười chúm chím, nói đùa:

            - Tại vì tao thương nó, vì nó là đứa con đầu lòng của tao, nên tao để cho nó chạy đi chơi với người tình của nó. Em của chị, lúc này nói toàn là Thiền không! Bộ Gia Đình Phật Tử Lộc Uyển lúc này có học thiền nữa, hả?

            -Có chứ, anh Đạt có thuyết trình thêm cho ngành thiếu tụi em và các anh chị lớn trong đoàn được biết và hiểu thêm về thiền định, vì đằng nào học về Bát Chánh Đạo cũng phải học vê Thiền là cốt yếu trên cơ sở giác ngộ bằng trí tuệ. Sở dĩ em nói danh từ “thuyết trình”, là tại vì anh Đạt lập đi lập lại hai ba lần là ảnh không có quyền dạy Thiền hay giáo lý cho ai cả, ảnh chỉ có quyền thuyết trình để chia xẻ với nhau đẻ cùng nhau hiểu mà tu tập đúng với câu “ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Nhưng đâu phải tuần nào tụi em cũng được anh Đạt nói cho nghe đâu. Ba tuần ảnh mới thuyết cho một lần. Mỗi lần như thế tụi em nghe mệt nghỉ và có khi cười ngất đã đời, vì ảnh nói rõ và ví dụ hay, ăn khớp với bài.

            Hà tắt bàn ủi, để nó ra khỏi tấm vải, cầm chiếc áo dài lên, rũ cho thẳng xuống, nhìn rồi nói một mình: “Như thế này cũng được rồi, có ai ngắm đâu mà ủi cho kỹ, miễn là ăn mặc cho kín đáo, lịch sự là đúng lễ nghi trong buổi hàn huyên đạo tình”. Nói đến chữ “hàn huyên”, Hà giựt mình, nhìn Minh. Rồi nàng lặng lẽ, cầm chiếc áo đi lên nhà trên, treo vào mắc áo trong tủ đứng. Trong vài phút, nàng trở lại bàn, tiếp tục ủi áo quần khát. Trong lúc chờ bàn ủi nóng, Hà gọi Minh:

            - Lại cho chị hỏi cái này một chút.

            Nghe Hà gọi, Minh chỉ nhìn Hà không nói, và tiếp tục xếp lại các nồi niêu ở tầng trên, những chai, lọ, hũ đựng đường, muối, bột ngọt, tiêu, tỏi, hành, ớt ở tầng dưới cho được gọn gàng, thứ tự nơi cái tủ đựng thức ăn và các thứ gia vị. Xong, Minh đến bên Hà:

            - Chị hai hỏi gì, chị hai?

            Hà im lặng, đôi mắt nhìn xuống cùng với đôi tay trong động tác tích cực hơn trước, ghì mạnh bàn ủi lên chiếc quần Jean màu xanh nhạt.

            Thấy Hà không nói gì, Minh thúc hối:

            - Hỏi gì, hỏi lẹ lên, để em còn đi làm việc khác?

            Hà không đá động gì đến lời thúc giục của Minh, nàng cứ tiếp tục ủi trong im lặng, vì tâm tư nàng đang đấu tranh với nhau giữa nên hay không nên hỏi Minh về Đạt, là lâu nay Đạt có quan tâm hỏi han gì về mình hay không. Vẫn biết rằng sẽ không được Minh trả lời bằng lời lẽ ngọt dịu, cũng như biết rằng Đạt không bao giờ hỏi đến mình nhưng, Hà cứ hỏi, hỏi để công khai hóa tâm tư của mình cho Minh được biết là nàng đang có tâm tư nhớ tưởng đến Đạt, vì vậy Hà quyết định:

            - Bấy lâu nay, khi anh Đạt nói chuyện với em, ảnh có hỏi gì về chị không?

            - Xí, tết Công-Gô, anh Đạt mới hỏi chị, chị là gì của ảnh mà ảnh phải hỏi đến? Chị đừng tưởng chị là người đẹp mà cứ nằm đó mà chờ sung rụng! Chị phải tạo nhân duyên gặp gỡ thường xuyên bằng thể xác và lời tâm tình. Vì có tình nào mà tự nhiên thành đâu! Người ta phải mất cả một chuỗi thời gian bằng những hạt duyên ra công, ra sức, lời lẽ, mới có thể… vậy mà, có kẻ còn bị thua vì lẽ này hay lẽ khác. Trong những lẽ đó có sự thiếu vắng đạo đức Phật giáo làm nhân chính yếu, còn duyên lân mẫn dù là phụ thuộc để thành đạt. Hai dữ kiện khác nhau. Tuy nhiên yếu tố lân mẫn dù là phụ nhưng là sự khởi điểm của mọi cuộc tình. Ở lãnh vực đạo hay đời đều phải áp dụng tinh thần lân mẫn của pháp duyên khởi. Riêng về đời, sau đó nếu được thuận duyên, thân tâm cùng hòa hợp để xông pha, nhẫn nhục, chịu đựng gian khổ, vượt qua hầm hố đầy chông gai, đối đầu với phiền não… Chấp nhận, nuôi dưỡng chúng để lượm từng mảnh hạnh phúc thật sự có chất lượng nguyên lý hạnh phúc. Kẻ nào tìm hạnh phúc không có chất lượng nguyên lý trong đó, chỉ là kẻ vụng trộm hạnh phúc bằng hành động đểu cáng, lừa gạt. Tức là đi tìm hạnh phúc mà không dám xông pha vào chiến trận, sợ lửa đạn, chông gai, hầm hố, sấm sét, gió bảo của tình yêu. Chẳng khác nào nói Niết Bàn, mà cứ ngồi “nhà mát ăn bát vàng” không chịu dấn thân vào khổ đau, phiền não. Giống như người thích chơi môn thể thao lướt sóng bằng tấm gỗ dưới chân mà chỉ đứng ở mé nước không dám vào nước biển vì sợ sóng cuốn trôi. Cũng như có kẻ thích dancing mà sợ đèn làm chói mắt nên tìm chỗ tối để nhìn ra đèn màu tắt, chớp, có vũ khúc tăng gô, đưa mắt nhìn vào đó mà thân, tâm rơi rụng… Để rồi làm kẻ cô đơn ngồi xem cuốn phim tình hiện lên màn ảnh tâm tư. Hay có kẻ ngồi chờ đêm về đi ăn trộm tình yêu, và có những kẻ dùng quyền hành chức tước cướp cạn tình yêu của người khác. Trong trần gian này tình yêu nào không chứa đạo lý con người là những tên trộm, cướp tình yêu. Dĩ nhiên, với kẻ trộm nào mà chả có xông pha, liều lĩnh, chịu đựng, nhẫn nại để mò mẫm đường đi nước bước… Nhưng cái quả hạnh phúc do hành động trộm, cướp không phải là thứ hạnh phúc chân thật, vì không có chất lượng đạo lý trong đó. Ngay trong giờ phút bắt đầu và hành động, tâm của họ đã không có niềm an lạc rồi vì lo lắng và hồi hộp. Như thế, làm sao gọi là tình yêu! Đã là tình yêu phải có niềm an lạc hạnh phúc trong tâm tư.

            Minh ngưng một chút, nhìn qua Hà:

            - Nãy giờ, chị có nghe em nói gì không?

            - Có nghe, chị đang nghe đây. Nhưng mà nè, mày chừng mấy tuổi đầu, sao mà em rành rẽ chuyện đời quá vậy?

            - Ô hay! Chị này nói vô duyên thật! Có nghe người nói, có đọc sách và học hỏi ở thầy, thì mới biết lý nghĩa chuyện đạo, đời chứ! Nếu không, làm sao có sự hiểu biết ấy. Chị còn nhớ trước đây, có lần ba giảng cho chị em mình nghe câu “nhân bất học, bất tri lý” không? Tức là con người trên đời không có học làm sao biết được lý lẽ sự việc ở đời cũng như đạo. Cho nên, với người trong đạo Phật, trước khi tu tập và phụng sự đạo pháp là phải học giáo pháp để rõ khế lý mới biết phương pháp tu, phương pháp phụng sự, cũng như người xưa nói “tri đạo tức học đạo”, học để biết mà hành đạo. Cũng như tình yêu, chị phải biết rõ lý nghĩa của nó, chị mới đạt lấy hạnh phúc và an vui. Những gì em nói với chị từ nãy giờ là lý nghĩa của tình yêu, nó thuộc về kỹ thuật kiến tạo hạnh phúc, an vui và nắm giữ tình yêu đừng cho bay ra khỏi tầm tay. Nói rõ hơn, nó là pháp để đạt hạnh phúc chân thật trong tình yêu. Pháp ấy chính là đạo đức Phật giáo trong mọi cuộc tình. Cho nên đạo đức Phật giáo trong tình yêu không có vấn đề môn đăng hộ đối, dòm ngó hũ gạo túi tiền của nhau, không xem xét chức tước nhau. Có chăng, chỉ xem xét dòng họ có đạo đức Phật giáo hay không. Môn đăng hộ đối thuộc về vật chất, không phải lãnh vực tinh thần. Do vậy, sự nghiệp của một cá nhân trong tình yêu là một quan toàn, một nông dân, một chiếc xe bán bánh mì, một phu xe xích lô… Tất cả thuộc về nghiệp quả. Cho nên, con gái có mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu, là như vậy. Dù trong dù đục vẫn nhẫn nhục thương nhau trọn đời. Đó là đạo lý của sự chung thủy với nhau. Mà như thế, do đạo đức Phật giáo đã tạo cho con người Việt Nam có tình chung thủy đó.

            Hà và Minh đang nói chuyện với nhau, thấy ông Thông từ nhà trên xuống, Minh tự động vặn cái vô-lim miệng nhỏ dần rồi nín luôn, không nói gì nữa. Minh liếc mắt thấy ông Thông đi tạt qua sau lưng, đến bếp, lấy ly rót nước chè xanh từ cái ấm thiếc đen thui, Minh liền nói lảng qua chuyện khác:

            - Chị hai có mỏi tay, đưa em ủi giùm cho một lúc?

            - Được rồi, còn hai cái áo cụt để chị ủi nốt luôn thể.

            Minh thấy ông Thông đang bước tới gần bên mình, nhúc nhích hai chân dự trù bỏ Hà một mình, đi lên nhà trên nhưng, bị khựng lại bởi lời nói của ông Thông:

            - Hai chị em mày bữa nay lý sự dữ hả? Các con đừng tưởng ba ở nhà trên mà không nghe, ba nghe hết ráo. Chao ôi là lý sự tình yêu! Con Minh nói đạo đức tình yêu trong đạo Phật đúng lý đó! Nhưng bữa sau có có áp dụng được như vậy không? Còn con Hà, sao không nghe nói gì hết?

            - Lúc này con thua em Minh rồi!

            - Ở đó, mà chị thua em! Chưa tới lúc chỉ nói đó ba ơi! Chị còn hơn con nữa cơ!

            Ông Thông tươi cười, đưa bàn tay vò lên đầu Minh, khen lấy khen để:

            - Con của ba giỏi lắm, lý sự hay, đúng nghĩa, nhưng luôn nhớ đừng đụng đâu nói đó, nên “nói năng như chánh pháp và im lặng như chánh pháp”. Cố gắng học giỏi, bữa sau lên đại học mà học luật sư.

            Nói xong, ông Thông đi lên nhà trên. Hà quay lui, thấy ông Thông mất dạng sau cánh cửa, nàng nghiêng đầu gần Minh nói nhỏ:

            - Em nói là chị nói hơn em, lỡ ra ba hỏi em, chị đã nói chuyện với ai, em trả lời thế nào?

            - Thì chị đã nói chuyện đạo lý với anh Đạt, nói rất nhiều và lâu.

            - Thôi đi, đừng có nói vớ vẫn!

            - Chứ còn gì nữa mà chối? Bộ chị tưởng em không biết hả? Xí, ngày mai bà đi thăm ảnh, vui quá rồi, còn làm bộ!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG NĂM

 

M

ặt trời lên cao đúng tầm chín giờ sáng, giờ của đầu mùa đông ở miền nhiệt đới, nên ánh nắng ban mai làm cho người đi bộ ngoài đường thấy hơi hơi nóng trên mặt, nghe man mát trong bóng râm và thấy mát rười rượi khi chạy xe Honda với tốc độ ba mươi lăm miles một giờ.

            Hà dừng xe lại bên đường, tháo chiếc khăn rằn quàng cổ ra, xếp gọn, để nó bên cạnh cái ví trong giỏ ba-ga ở trước, đưa hai bàn tay lên mái tóc cột đuôi ngựa ở sau ót, gỡ lấy vòng vải dây thun ra để cho mái tóc thề nằm xõa trở lại trên hai bờ vai.

Đôi tay đang làm những động tác tháo, gỡ, miệng nàng tự nói một mình: “Quàng khăn vào cổ nghe nóng, tháo ra thấy lành lạnh. Thôi thì thả tóc xuống có hơn”. Rồi nàng tiếp tục cuộc hành trình đi thăm Đạt. Phải nói, đây là lần đầu tiên trong đời nàng được gặp bạn trai đúng như lời mẹ nàng nói: “Con gái chừng ấy tuổi đầu mà không chịu lấy chồng, không biết nó còn đợi ai!”

Lời than vãn của bà Thông là bởi vì một lần nọ, trước đây, Hà đã kháng cự không bằng lòng sau khi ông bà Mân ở cùng xóm phía bên kia đường, cách nhà Hà mấy chục mét, đến nhà để dạm hỏi việc hôn nhân cho con họ là Duy, một bậc giáo sư trung học đệ nhất cấp, trường Phan Bội Châu, quận Sơn Khê.

Thông thường con trai, con gái ở cùng xóm, cùng làng, lúc còn nhỏ nô đùa với nhau trên đường đến trường cũng như tan học về nhà. Khi hè về, bơi lội trong ao vào trưa nắng lửa hay đêm trăng chơi trò đạp lon ở ngã ba đầu ngõ… khi lớn lên, ngấp ngó bên hàng dậu, nảy ý, sanh tình, phải lòng nhau (yêu), khiến cho cha mẹ biết được rồi đi đến việc thăm dò dạm hỏi để thành hôn nhân. Nhưng với Hà,  đôi mắt dòng sông xanh của nàng, không có vấn đề “thuyền anh  bơi lội trên dòng mắt em”. Vì hình bóng của Duy không được lọt vào mắt xanh của nàng. Như thế việc hôn nhân cùng xóm không thể khẳng định nó là phong tục hay tập quán mà thuộc về một duyên hai nợ theo định luật nhân quả. Vì vậy, Hà đã bát bỏ sự dạm hỏi hôn nhân của ông bà Mân, cũng như bao lời ngọt ngào của bà Thông trước mặt Hà, nào là tuổi của cậu Duy với con tốt lắm, hạp mạng, hạp thiên can (Giáp kỷ, ất canh, bính tân, đinh nhâm, mậu quý). Tuổi con là tuổi bính, tuổi của Duy là tân, gặp nhau, cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhiều tiền, nhiều của do cái “tuổi nhất gái hơn hainhì trai hơn một”. Năm nay cậu ấy hai mươi sáu tuổi, con hai mươi lăm, cuộc sống trong tương lai sẽ được giàu sang phú quý.

Đáp lại lời của mẹ nàng, Hà đã khẳng định chữ duyên là nghiệp sanh tình, nó là hạt nhân sanh ra hoa, lá và có quả tình. Con người là loài hữu tình, muốn có tình, mà không tạo hạt nhân tình làm duyên gặp gỡ, thì tình kia làm sao có được. Do vậy, Hà đã đưa lời chê bai Duy trước mặt bà Thông nào là một nhà giáo mà không có chất văn hóa dính thân nên trạng thái không đứng đắn, ưa cười, nói lí nhí trước mọi người, đúng câu “chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên”. Con không tìm thấy nơi anh ấy có được một dáng điệu nào đáng yêu cả (forme d’amour). Là một công dân Việt Nam, tại sao anh ấy không áp dụng cho mình câu “có học phải có hạnh”? Thành ra, nàng đã khẩn khoản yêu cầu mẹ nàng đừng áp dụng luật cổ hủ của gia đình thời xưa “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” ở người con gái. Nàng còn nói cho mẹ nàng biết rõ là ngay cả trong thời xưa đó, đã có người đưa lời bênh vực cho cả nam lẫn nữ “ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên”. Và chỉ cho người nam kẻ nữ con đường tự do tình ái rộng thênh thang trước mặt: “Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”.

Đúng vậy, giữa những thanh niên, trai trẻ đến chọn lựa hoa sen để mua hôm ấy, Đạt là người được Hà chọn làm “ý trung nhân” đugn theo sự nhận thức của nàng về nghĩa của duyên tình gặp gỡ là phải có hành động và lời nói thể hiện bản chất văn hóa dân tộc và đạo đức Phật giáo, mà mười đóa hoa sen là những nhịp cầu giao duyên. Và cũng là những hạt nhân để sanh ra quả duyên tình thực tại và không dứt (duyên nối tiếp nhau) trong vô lượng kiếp về sau trên cơ sở đồng tình, đồng tu, và đồng sự phụng trì đạo pháp. Nên sự ra đi thăm Đạt của Hà đúng như Nguyễn Du đã nói: “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”. Hoa ở đây là hoa sen, chứ không phải là hoa hồng theo như ý của Nguyễn Du. Hà là một đóa hoa sen đi tìm một đóa hoa sen. Tuy nhiên, hoa sen cũng là một loại hoa tình. Tình đây là tình đạo. Vì trong đời có đạo (Phật pháp không ra ngoài pháp của thế gian). Từ tình đời phát sinh ra tình đạo theo lý của tương duyên để giác tha. Một chúng sanh trước khi thành Phật, một thời đã bị trôi lăn trong ao bùn thế nhân. Một hoa sen, trước khi vươn lên nở hoa trên mặt nước, đã một thời nằm trong  bùn lầy tăm tối dưới ao. Hà là một cô gái phàm phu đang vươn lên nở hoa trong ao bùn thế nhân, nên tâm tư của nàng có chứa đựng vui, buồn, ghét, thương, thích đạo đức, lễ nghi văn hóa là lý lẽ thường tình. Thường tình này chính là pháp thế gian, trong pháp ấy có đạo pháp.

Đạo ở đây theo nghĩa mọn: biết chủ động đưa thân tâm mình thường trú ở các trạng thái chững chạc, trang nghiêm, lễ độ, tôn kính khi thân hành động và miệng nói năng có văn hóa, đạo đức Phật giáo trước mọi người, kể cả trước cảnh vật thiên nhiên, thường gọi “khiêm cung, ái ngữ”.

Một con người có văn hóa đạo đức Phật giáo được thể hiện ra ở hành động và lời nói không phải do có văn bằng cao hay thấp, họ vẫn là con người có văn hóa và đạo đức. Ngược lại, con người không có văn hóa đạo đức Phật giáo dù họ có đỗ đạt nhiều văn bằng tiến sĩ đến đâu, không có vẫn là không có. Những hạng người này có trong đời và lẫn đạo. Hành động và lời nói thiếu văn hóa đạo đức Phật giáo của họ không những chỉ có ở hành động nói năng lên tay, xuống ngón mới gọi là thiếu văn hóa và đạo đức, mà còn ngay cả cái cười nhếch môi cùng với ánh mắt nhìn nghiêng khi đối diện trước cử tọa hay từng cá nhân. Đó là thái độ thiếu văn hóa và đạo đức Phật giáo, do bởi tâm thức chứa đầy sự ngã mạn, tự cao, nếu không nói là thiếu giáo pháp làm chất liệu diệt trừ bản ngã. Cho nên, giữa Duy và Hà, hai người khác biệt nhau một trời một vực. Duy có văn bằng tú tài hai và sư phạm cấp tốc hai năm, là một giáo sư. Còn Hà chỉ có văn bằng trung học đệ nhất cấp. Nhưng Hà có được chất văn hóa và đạo đức dính thân, còn Duy thì không. Nên trong ngày đi thăm Đạt, nàng đã phục sức vào thân nàng một sắc thái văn hóa dân tộc, mà chiếc áo dài màu xanh đồng nội, quần dài trắng, giày đen cao gót là biểu tượng. Vì nàng xem ở nơi Đạt như là nơi văn hóa, tương đương như đi dự đám hỏi, đám cưới, lễ chùa, trẩy hội. Hình ảnh văn hóa dân tộc nơi tấm thân của nàng đã làm cho mọi người trên con đường, kẻ xuôi, người ngược đều đưa mắt nhìn nàng khen ngợi: “Hôm nay ở Xóm Mía, hay Phong Lan, có nhà có đám hỏi hay cưới, nên cô ấy ăn mặc đẹp quá!”. Hình ảnh làm cho mọi người nhìn đến nàng hơn nữa là toàn thân nàng và chiếc xe Honda bị nhảy cóc lên, chồm về phía trước khi hai bánh xe lướt lên ổ gà với tốc độ ba mươi lăm miles/giờ, làm cho tâm tư nàng trở về thực tại, sau những giây phút đưa mắt nhìn bên phải để xem chừng gần đến làng Mía chưa. Nàng chạy chậm lại, tâm tư nàng miên man hằng chuyển trong niềm an lạc. Nàng nhìn không gian, nơi nào cũng có vẻ vui tươi và rộn ràng hơn ngày nào trước đây, mỗi lần nàng có mặt trên con đường này, sáng sớm hay chiều hôm. Cũng chừng ấy người với số dân của hai quận Sơn Khê và Phong Lan vào những ngày cuối tuần độ trăm người ngược xuôi. Và bấy nhiêu con mương, cái cống, hàng trên bên đường, vài cây dừa ngả mình bên cái ao quen thuộc đang rủ những tàu lá xuống như những cô vũ nữ xuôi tay, nghiêng mình sau khi chấm dứt một điệu múa. Những hàng cau cao nhòng đứng yên như tự nhìn vào nội tâm sau những mái nhà ngói đỏ, nay cũng đưa đôi bàn tay ngập đầy hoa trắng như dâng hiến cho nàng. Tất cả cảnh vật đều có vẻ như chia xẻ niềm vui với nàng.

 

Qua làng Mía, Hà dừng xe ở xóm cuối, hơi quá xóm một chút. Hà liền quay xe lại, chạy chậm chậm đến giữa làng đưa mắt nhìn bên trái, nàng đã tìm thấy ngôi nhà có mái ngói xi măng đã bạc màu, có cửa ngõ bằng song sắt sơn xanh và hai cây điệp ta đang trổ hoa vàng ở mỗi bên cánh cửa, đúng như lời Đạt đã diễn tả và mời nàng đến nhà trong giờ phút chia tay vào xế chiều năm xưa. Hà quay xe chạy theo chiều phải và đứng trước cổng vài giây, rồi nàng lại rồ ga chạy đi Phong Lan.

 

Tiếng máy xe Honda hai bánh vừa ngưng nổ trước cửa tiệm bà Thành Lợi, làm cho bà Lợi đang treo những con cá, con vịt, máy bay mập ú nhiều màu bằng ni lông lên trên cao trước cửa, dừng tay, quay mặt nhìn lui. Hà khóa xe xong, lấy ví mang vào vai, đi vào, miệng nàng tươi cười chào bà Lợi:

-Cháu kính chào bác, bác khỏe không bác?

Bà Lợi không đáp lời, nhìn Hà chăm chăm đến mấy giây mới mở lời:

- Chà! Lâu dữ à nghe, hôm nay đi ăn cưới ăn hỏi ở đâu mà phục sức đẹp thế? Đúng là người đẹp mặc kiểu gì cũng đẹp, áo dài càng đẹp hơn!

Nghe bà Lợi nói, Hà khiêm nhường:

- Dạ không dám, xin cảm ơn bác.

Sau lời khen Hà, bà Lợi không nói gì thêm, bà đi thẳng vào nhà trong, chỉ vài giây bà trở ra. Nghe có tiếng sáo rèm khua sột soạt. Hà thôi nhìn các món hàng, đưa mắt hướng về bà Lợi từ trong rèm bước ra, cũng vừa lúc ấy bà Lợi nói thêm:

-Có gì mà không dám! Cháu đẹp bác khen cháu đẹp. Lời thật ưa mích lòng. Mích lòng thì mích lòng, bác cứ khen cháu. Chẳng những mình bác, mà mấy đứa con bác đứa nào cũng khen cháu đẹp. Nhất là thằng Mãn nó thường nhắc đến cháu là lúc này ít thấy cô Hà xuống lấy hàng mà chỉ thấy cô Minh không thôi.

- Anh Mãn lúc này làm gì bác?

Nghe Hà hỏi đến con trai cả mình, bà Lợi có vẻ vui trong lòng, nên kể ra hết sự nghiệp của Mãn, nào là: “Từ ngày nó đầu bằng kỹ sư Nông Lâm Súc đến nay, nó được cấp trên cho về làm giám học trường Nông Lâm Súc tại quận nhà đây và kiêm  luôn khoa trưởng kỹ thuật nuôi gia súc. Và nghe nó nói sắp được đi khảo cứu ngành nông nghiệp ở Philippine. Thằng Mãn của bác nó ham học lắm. Tuổi hai mươi sáu chừng ấy mà không nghe nó đá động gì đến bồ bịch con gái. Nó dự định lập một trại nuôi gà đẻ trứng tại nhà, mà chưa có mời ai hùn hạp, cộng tác trông coi. Vậy cháu xem có cộng tác được không, để bác nói với nó?

- Dạ thưa bác, cháu đâu có tài cán gì mà cộng tác! Cũng như không có khả năng và điều kiện nào cả. Tại quận này có thiếu gì người giàu có và tài giỏi, nên mời họ hay hơn.

Bà Lợi đang khom lưng xếp lại các bao hàng nghe Hà trả lời, bà ngừng tay, ngẩn người lên, đôi mi mắt bà chớp chớp sau cặp mắt kính trắng xệ xuống trên sóng mũi, nhìn Hà với nét mặt nghiêm túc, bà giải thích:

-Nói như cháu, đâu còn gì để nói! Ở đây, cốt là chỗ quen biết, thấy cháu có đức tánh hiền hậu, đảm đang mọi việc, biết rõ cháu là con của một gia đình có tu hành, nên bác mới nhã ý mời cháu chứ! Mời cộng tác, có nghĩa là nhờ cháu trông coi rồi trả lương, chứ không phải hùn hạp tiền nong gì đâu mà ngại. Cháu có hiểu ý bác nói không?

-Vâng, cháu hiểu chứ! Xin lỗi bác, nếu cháu có đủ điều kiện cả hai, tiền bạc và khả năng điều hành cơ sở, cháu cũng không làm nghề chăn nuôi. Thôi, việc đó xin bác tha cho cháu. Bây giờ bác để cho cháu một ít hàng.

- Hôm nay lấy thứ gì nào?

Hà nhìn lên những loại dây khoanh tròn đang treo trên các móc bên cửa, Hà mím môi, chau mày, nhìn đăm đăm các loại dây như đang tính toán nên lấy bao nhiêu và loại nào, rồi nàng quay qua bà Lợi:

- Thưa bác, bác để cho cháu mười khoanh dây thép cỡ vừa, mười khoanh dây dừa, mười khoanh dây ni lông trắng. Cháu xin gửi tiền cho bác ngay bây giờ. Và thưa bác, bác cho cháu gửi số dây này ở đây, cỡ chừng vài tiếng đồng hồ sau, cháu sẽ trở lại lấy. Thưa bác, có được không ạ?

- Được rồi, cháu yên chí, không mất khoanh nào, bác sẽ gói ghém và để riêng ở góc cửa này cho cháu.

Sau lời thưa gửi với bà Lợi, Hà mở ví, lấy ra những tờ giấy bạc loại năm trăm màu xanh có hình đức Trần Hưng Đạo ở giữa tờ bạc, đưa cho bà Lợi, rồi cảm ơn, rồi nàng ra xe.

 

Bà Lộc có thói quen, hễ rửa rau xong, bà tận dụng nước đó đem tưới vào cây cối trong vườn. Tạt xong thau nước vào gốc cây Sa-pô-chê, bà ngồi chồm hổm xuống, hai cánh tay gác lên hai đầu gối, hai bàn tay cầm cái thau không, đưa mắt nhìn say đắm những trái Sa-pô-chê non bằng trứng cút đang đeo nhau giữa thân cây và những cành cây. Bỗng nghe có tiếng xe gắn máy nổ bình bịch ở trước cổng nhà, bà đứng dậy, nheo mắt nhìn ra phía cổng sau những cành cây, lá lờn vờn trước mặt. Thấy có dáng người đứng thập thò sau những song sắt màu xanh của cổng. Bà Lộc liền bước lần ra. Vừa sát tới cổng, Hà tươi cười gật đầu, lên tiếng trước:

- Cháu chào bác! Dạ thưa bác, có phải đây là nhà anh Đạt không ạ?

- Vâng, đúng rồi cô!

- Thưa bác, có anh Đạt ở nhà không, bác?

- Có, mời cô vào.

Vừa dứt tiếng, bà Lộc khom lưng, đưa tay rút chốt cửa ra khỏi cái lỗ nhỏ bằng xi măng, đứng lên, đi lui sau cùng với cánh cửa, đưa lời dặn dò người khách:

- Cháu đem xe vào trong xa, gần cửa hông nhà bếp cho chắc ăn, dù ở đây bao đời không có xảy ra vấn đề trộm cắp nhưng, lúc nào cũng đề phòng cẩn thận có hơn, vì lỡ ra có người đi ngoài đường nhìn vào trông thấy rồi sanh lòng tham, lúc ấy khổ cho mình và cả cho họ.

Hà cảm thấy như có một sức hút bao trùm lên thân tâm, khiến cho tâm tư bồi hồi, đôi chân chùng bước khi nàng dắt chiếc xe đi chậm trên con đường lát gạch trong tư thế hơi nghiêng mình, khom tới, tựa hồ như trạng thái cung kính khi đi ngang qua hình tượng chư Phật.

Gần đến cửa hông nhà bếp, Hà tự động cho xe sát lề, dừng lại, nhìn lui như thể hỏi ngầm bà Lộc phía sau rằng: “để xe ở đây có được không?”

Hiểu ý Hà, bà Lộc nói ngay:

- Để xe tại đây được rồi cháu, cũng nên khóa xe cẩn thận, có đồ đạt gì đem hết vào.

Sau lời chấp nhận vị trí đậu xe của bà Lộc, Hà dựng xe lên, khóa cổ, bỏ chìa khóa vào trong ví, ngước cổ lên, đưa hai bàn tay vuốt mái tóc sau lưng, sửa lại vạt áo trước sau cho thẳng thớm, lấy ví mang vào vai.

Mọi hành động chỉnh lại thân tâm an trú vào tĩnh lặng trước khi gặp Đạt rất chậm như để chờ sự bình tĩnh xuống ở mức độ thật thấp. Ấy thế, chẳng những không xuống mà còn lên cao khi nàng nghe tiếng của bà Lộc từ bên trong gọi Đạt: “Đạt ơi, có khách”. Tiếng gọi Đạt của bà Lộc vang ra làm cho đôi má nàng bỗng dưng hồng thêm khi nàng đứng dưới mái hiên có ánh nắng của một ngày đầu mùa đông từ phía nam chiếu xuyên qua thân hình nàng.

Đang chuẩn bị tư thế bước vào, bà Lộc từ trong cửa ló đầu ra, miệng nói:

- Vào đi cháu, cứ tự nhiên, bạn của Đạt, bác coi cháu như con cháu trong nhà.

Khi Hà bước qua khỏi ngưỡng cửa và đang đến gần bàn ăn, bà Lộc nói thêm:

- Không biết nó làm gì trên nhà trên mà nãy giờ chưa xuống, chắc là đang xem nốt cho hết trang sách. Ham đọc sách lắm, hễ nghỉ ở nhà là đọc sách nhiều hơn làm việc khác. Xin lỗi cháu, bác đang lo làm thức ăn chay. Hôm nay là ngày mồng tám tháng mười ta, là ngày thập trai cho riêng bác. Chứ còn Đạt, nó đã ăn chay trường hơn mười năm nay rồi. Cháu kéo ghế ngồi chơi tự nhiên, nghe cháu. Bác còn phải đi ra vườn hái một ít rau thơm.

- Dạ thưa bác, để mặc cháu.

Khi bà Lộc vừa khuất dạng bên hông cửa, Hà bước tới đứng ở đâu bàn nơi cửa sổ, nàng nhìn lên tấm bảng màu trắng có chiều dài cỡ sáu tấc, chiều ngang bốn tấc, được treo khít vào vách. Tấm bảng dùng để viết những gì cần viết, viết xong lại chùi, viết lên điều khác. Hà đứng đọc hai hàng chữ màu xanh được viết rất thẳng hàng như những người  lính quân trường xếp hai hàng dọc trước thẳng lúc tập họp cấp tiểu đội. Hà đọc từng chữ trên bảng: “Phàm làm việc gì, phải nghĩ đến kết quả của nó”.

Hà đang nhìn và tư duy nhớ lại hai câu ấy ở trong sách có tựa đề “Bài học ngàn vàng” do Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn, bỗng có tiếng Đạt sau lưng:

- Ụa! Đến hồi nào vậy, cô? Đến mà không kèn không trống gì cả! May mà đến buổi sáng, chứ buổi chiều là hổng có tôi ở nhà! Phàm làm việc gì, phải nghĩ đến kết quả của nó. Vậy cô có nghĩ đến kết quả trước khi đến đây không?

- Em đã chọn đúng giờ hoàng đạo, nên được gặp anh và đã có nghĩ đến kết quả là có anh ở nhà, vì nghe anh nói thứ bảy anh không đi đâu cơ mà!

- Thế nào là giờ hoàng đạo, nói nghe?

- Em chả biết, nghe người ta nói: buổi sáng, đúng chín giờ là giờ tốt, nên có công việc gì quan trọng, em chờ cho đúng chín giờ em khởi hành ra khỏi nhà.

- Nói thế mà cũng nói! Nếu có việc cần kíp buộc ta phải đi vào lúc sáu giờ, bảy giờ… thì sao? Chẳng nhẽ không đi à! Với người Phật tử, giờ nào cũng là giờ tốt, ngày nào cũng là ngày tốt. Người Phật tử phải tin vào nhân quả để phá trừ mê tín. Nếu tạo cho mình một ý niệm mê tín dị đoan, mọi sự việc làm ăn, sinh hoạt sẽ bị chậm trễ, thất bại. Đạo Phật chủ trương phá trừ mê tín. Vậy mà một số chùa, một số thầy bày ra xin xăm, bói quẻ. Thôi, xin mời cô ngồi đây. Đạt kéo ghế mời Hà.

Đạt bước qua bên bếp rót hai ly nước trắng, bưng lại đặt trên bàn mời Hà:

- Xin uống tạm nước lã nhé, vì cả nhà tôi và bà già, không ai uống nước chè nước chát gì cả.

Hà nhìn ly nước trước mặt, đưa lời vuốt theo:

- Tụi em cũng vậy, đứa nào cũng đều uống nước lã. Riêng ba và má em uống nước trà. Nhiều khi ông ấy uống trà rất đậm, loại trà ướp sen. Uống nước trong tốt lắm chứ, một ly nước trong, một lòng trong sạch.

Nghe Hà nói một lòng trong sạch, Đạt nhìn Hà hỏi vặn:

- Có thật trong sạch do nước trong không?

- Trong sạch ở đây, theo em nghĩ là: uông nước lạnh vào buổi sáng làm cho đường ruột được thông, khỏi bị bón. Chứ lòng người, (tâm) khi đã bị ô uế bởi nhiều tầng lớp vô minh, đóng khằn trụ địa từ vô lượng kiếp đến nay, dù có uống hàng ngàn lít nước trong một ngày cũng không thể nào sạch được, chỉ có uống cam lồ pháp Phật thì mới sạch. Nhưng con người ít ai chịu uống, họ tránh né cam lồ như trẻ con sợ thuốc đắng. Họ chỉ thích uống danh vọng, tiền tài, chức tước, đó là những vị ngọt của cuộc đời. Động từ “uống” mà em nói ở đây, chỉ cho lực vô minh trong tâm con người dưới cấp độ phàm phu, do vậy mà họ bị trôi lăn vào biển sắc đây nhân ngã, bỉ thử, tranh giành chức vị… Ngay cả trong Phật giáo hiện nay cũng có những hạng người như thế. Sở dĩ họ là Phật tử mà còn có tâm quá ư phàm phu như vậy, là tại vì họ không chịu uống cam lồ pháp Phật!

- Làm sao cô biết được họ không uống?

- Dễ quá! Nếu họ uống cam lồ pháp Phật, tại sao đối với kẻ giàu có đến chùa họ, họ dùng con mắt hiền như Bụt và miệng cười như hoa tươi trong giao tiếp và đối xử! Còn dùng con mắt lạnh ngắt như tiền và đôi môi khép kín như hến trong tiếp xúc đối xử với kẻ ít tiền hay không có tiền đến lễ bái ở chùa họ! Như thế, em khẳng định rằng họ không phải là Phật tử, vì họ không có tâm bình đẳng của đạo Phật. Không có tâm bình đẳng, làm sao có lòng từ bi và trí tuệ! do vậy, cơ sở hội Phật giáo của họ là nơi kinh doanh. Tất cả hình ảnh chùa chiền, Phật tượng, kinh sách, tăng ni tại chùa họ là phương tiện cho họ hái ra tiền, nên vị tăng ở đó là người tụng thuê để họ lấy tiền, rồi thí tiền lại cho ông thầy. Thầy nào chống lại hành vi tà đạo của họ, họ tìm cách đuổi thầy đi.

Xem trong lịch sử truyền bá và phát triển Phật học của hàng cư sĩ nói riêng từ ngàn xưa đến nay đâu có loại người như thế!

Nghe Hà đề cập đến tác phong đạo đức rởm của các ông to bà lớn có chức tại một hội bán pháp mua tăng, làm cho Đạt thấy rõ lại cái bản mặt xương xẩu, gân guốc, da chì của ông chủ chùa hội Phật giáo nọ ở Sài Gòn năm xưa: Cứ mỗi lần xuất hiện tại chùa, tâm thân gầy còm của ông được khoác lên bộ vét tông màu khói thường trực trong bốn mùa như là huy hiệu riêng biệt chức sắc về vai trò ông chủ chùa, nên chi mỗi lần như thế, mặt ông lầm lì trong bước đi, mắt dòm láo liên tứ phía, dòm cây kèo, ngó cây cột, đứng xem cây quất bên rào, trong lúc bên trong chánh điện có tiếng tụng kinh rôm rỡ, trầm bổng của vị sư và Phật tử. Ông ta đúng là cấp lãnh đạo, nên lời nói ngọt như mật, cách cư xử rất lịch sự trong lần đầu mới gặp. Nhưng càng về sau mới thấy rõ bản mặt thật của ổng, không phải là một tay vừa, có tầm cỡ cấp “tổng trưởng” trở lên. Do vậy, sau mặt thật, ông ta còn có nhiều cái mặt khác. Trong đó có bộ mặt đểu cáng, vì ông ta có nhiều cách nói lèo lái hay lắm. Thường là nói một đàng làm một nẻo. Đạt không quên, có lần ông ta ra lệnh cho mụ vãi già đóng cửa chùa, cấm không cho Đạt vào chánh điện đọc sách, chỉ vì một việc nhỏ về kinh sách không ra đâu nhưng, với bản chất quen thói hách dịch ở ngoài đời làm cho tâm ông nổi sóng gió, nên từ miệng ông văng ra những lời lẽ hống hách mang âm thanh sặc mùi thịt rượu của những hạng người trưởng làng đem Phật thờ trong miếu. Và mụ vãi già mới tu chưa phủi hết bụi trần, nên chi lời ăn, tiếng nói, hành vi đối đãi không khác gì ông chủ chùa, bà chủ chùa. Do vậy, mới vừa thấy Đạt đi trên hành lang chùa, mụ vãi già bỏ việc lặt rau trong bếp, tức tốc bước mau, xông tới trước mặt Đạt, nghểnh lên cái gương mặt có màu da nhợt nhạt, nhìn Đạt bằng cặp mắt có hai con ngươi nằm lệch qua bên khóe mắt và cặp chân mày rậm rạp, vểnh ngược, còn nguyên chưa xăm xỉa. Đôi môi mỏng của bà lóng lánh có đọng chút nước như mới vừa ăn xong, hay như một cái liếm môi của một ít cô gái có thói quen phải liếm trước khi nói chuyện với chàng trai. Bà buông ra từng loạt ngôn ngữ còn đọng lại mùi son phấn làm cho tiếng nói của bà có âm vang đả đớt, ỏng ẹo, léo nhéo khi lặp lại lệnh đóng cửa chùa và cấm Đạt không được vào chánh điện của ông chủ chùa.

Trở về thực tại khi Hà ngưng nói, Đạt liền dập tắt những hình ảnh quái gở, ghê rợn, ngán ngẩm của thuở xa xưa ấy. Rồi tự nhiên câu châm ngôn thuộc nằm lòng “Hằng thuận chúng sanh”, lời hạnh nguyện của đức Bồ Tát Phổ Hiền hiện ra trong tâm. Đạt ngồi im, khoanh tay trước ngực, dựa sát vào bàn, đôi mắt nhìn xuống ly nước, rồi ngước lên nói khe khẽ:

- Cô Hà! Hình ảnh kỷ niệm của quá khứ có mấy thứ: quyến thuộc, người yêu, tài vật, của cải, người mình ghét, kẻ oán thù… Nếu đã mất hay còn mà mình không còn liên hệ tới nữa vì lý do nào đó, thứ nào cũng làm cho con người luyến tiếc, bứt rứt khổ đau và thù hận. Tất cả đều thuộc về quá khứ trên cơ sở không còn liên hệ, thì đừng bao giờ nghĩ tới. Cho nên, một nhà tư tưởng Tây phương (tôi quên tên) đã cất cao lời than: “Quá khứ ơi, đừng giày vò ta nữa”. Trên đời chắc cũng có người đã hơn một lần khổ đau vì hình ảnh kỷ niệm ở quá khứ, nên đòi chôn vùi nó: “Quá khứ là nấm mồ vô tận”. Nhưng đối với người đã tỏ ngộ lý vô thường sanh diệt, nhìn vạn vật và con người, thấy được tánh không của chúng, nên không nhớ tưởng đến hình ảnh kỷ niệm của quá khứ, vì nó đã qua. Và cũng không tư duy mơ ước hình ảnh ở tương lai vì nó chưa đến, chỉ nhìn thẳng vào thực tại hiện hữu vì thực tại là chân như. Lấy hiện tại làm động cơ sinh sản, trước hết cho mình: nụ cười hồn nhiên, một trí tuệ sáng suốt, của cải vật chất, niềm an vui hạnh phúc thực chất. Cho nên, hiện tại là con đường thẳng độc đạo đi đến sự sống và cáichết, hai điều quan trọng này mà người dân Tây Tạng qua sự thấm nhuần giáo lý nhà Phật đã dạy cho nhau: “Sống cho ra sống, chết cho ra chết”. Vì vậy, cô đừng cất giữ những hình ảnh ông to bà lớn làm việc tà đạo tại những chùa mang danh nghĩa hội Phật giáo này, hội Phật giáo nọ vào lòng chi nữa, hãy chôn vùi những hình ảnh đó dưới núi tuyết, tức là tha thứ cho họ.

- Vâng, cả đời em chả có quan tâm đến các ông to bà lớn đó làm gì, tại vì anh hỏi em: “Làm sao biết được họ không uống cam lồ pháp Phật” nên em mới thấy lại thực trạng chung hiện nay của những ngôi chùa gọi là Chùa Hội do một nhóm người mang nhãn hiệu Phật giáo điều khiển nhưng thân tâm của họ không phải sự hiện thân của các đại cư sĩ Duy Ma Cật, Ba Tư Nặc, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Lê Đình Thám, Võ Đình Dung, Cao Hữu Đính v.v… Vì không phải sự hiện thân như những cư sĩ tiền bối xa xưa về trước và gần đây, nên chùa của họ không có trụ trì tăng bảo, nếu có cũng không ở lâu được! Bởi lẽ họ không phải là Phật tử phụng sự vì đạo pháp giác tha, nên mới nói sự có mặt của họ ở những ngôi chùa Hội Phật Giáo như thế là “không phải sự hiện thân của cư sĩ”. Vì cư sĩ đúng nghĩa là phải có tâm từ bi và sự hiểu biết rộng lớn vê cách cư xử đúng tác phong của con người đang ở vào đất tịnh  độ già lam, cũng như hiểu một số giáo lý cơ bản.

Biết rõ Hà đã hết ý khi nàng ngưng nói trong vài nháy mắt, tuy nhiên Đạt vẫn chờ. Thấy Hà tiếp tục ngồi im, Đạt buông tay, đứng dậy, đi đến cuối bàn, đưa tay mở tung hai cánh cửa sổ, rồi trở lại chỗ cũ, nói lời tha thứ:

- Mặc dù họ như vậy, nhưng ta phải hỷ xả mà tha thứ, vì trên danh nghĩa họ là những người anh em hiện tại cùng có mặt trong căn nhà Phật giáo. Trong một căn nhà của một đại gia đình, dĩ nhiên phải có những anh em của ta đang say men danh vọng, chức tước… Ta là người trong đại gia đình đang tỉnh, ta phải dùng hạnh nguyện giác tha gần gũi bên họ. Nhớ là chỉ đứng gần thôi, đừng nói, đừng can ngăn họ, vì người đang say tâm tính của họ nóng nảy, ăn nó bộp chộp, thiếu suy nghĩ, nên họ ngang hàng với trẻ con và người dốt. Dốt đây là dốt Phật pháp (nhân bất học Phật pháp bất tri khế lý). Chẳng hạn một bà Phật tử trên năm chục tuổi, có dáng dấp mệnh phụ, đẹp, ngầu và đồ sộ như ngôi chùa mà bà đang giữ chức Hội Trưởng Hội Phật Giáo. Nhưng bà ta thường sử dụng ngôn ngữ chợ búa đối với các bạn đạo không bằng lòng về việc bà điều hành Phật sự không đúng đạo lý của Phật giáo. Vì vậy mà bà đã đưa lời xỉ vả: “Chó sủa mặc chó, đường ta ta cứ đi. Thấy bọn nó đến đây, hãy đóng cửa lại, đừng cho chúng nó vào chùa mà làm loạn”. Say men tình tứ, thịt rượu, danh vọng, chức tước, tiền tài… Thứ nào cũng đều đưa tâm con người đi vào vô minh. Nói nôm na là si mê, không hiểu biết, cuồng tín cực độ. Do vậy hạnh nguyện lân mẫn là “bất khả thuyết”, tức là chỉ đứng gần thôi, đừng nói gì hết (Im lặng như chánh pháp) và tỏ thái độ chìu theo cho đến khi nào họ hết say. Hết say có nghĩa là họ đã biết ăn năn sám hối từ bỏ không còn tái phạm việc hành đạo có vụ lợi riêng tư như trước đây nữa. Trạng thái ăn năn được thể hiện ra lời nói có đôi mắt từ bi biết thương mọi người (từ nhãn thị chúng sanh). Vì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên trạng thái khiêm cung ái ngữ thật lòng với mọi người được đánh giá trên đôi mắt. Chừng ấy, ta sẽ đưa ly nước cam lồ pháp Phật cho họ. Tức là trên tinh thần giác tha, lấy tư cách tình đạo anh em trong một nhà ta đưa lời: “Nói năng như chánh pháp” với họ lúc hàn huyên tâm sự. Đó là hạnh “Bồ Tát hằng thuận chúng sanh”.

- Em sẽ “mặc tẩn” họ, tức là tỏ thái độ không thèm đếm xỉa, chứ đừng nói là lân mẫn. Mặc tẩn là cách trừng phạt không đòn roi của bậc sư trưởng đối với sư nhỏ có lỗi trong chốn thiền môn. Từ đó sư nhỏ sẽ tự cảm thấy xấu hổ mà ăn năn sám hối.

- Đúng là đàn bà, ít khi tha thứ cho ai. Nên đời có câu “Ông tha mà bà chẳng tha, đến cho trận lụt hăm ba tháng mười” là do bà ra lệnh. Hèn chi các tổ của ta không gọi “Thiện nữ, tín nam” mà lại gọi “Thiện nam, tín nữ” là vậy. Theo như tinh thần câu đó, đàn bà đâu có Thiện mà gọi! Nói đến đây, tôi còn nhớ rõ hồi xưa tôi thường bị mấy đứa em Bắc Cờ năm tư, con ông chú tôi, ưa bắt nạt và lý sự với tôi dữ lắm! Mấy cô ấy như sư tử Hà đông, chua như chanh, mà cũng ngọt như mật.

- Em cũng là Bắc Cờ chớ bộ! Bắc Cờ còn trước năm tư nữa cơ! Anh nói như vậy là bứt dây động rừng đấy nhé! Không sợ em giận hay sao?

- Bắc Cờ của cô là Bắc Cờ lai Cầu Đá Nha Trang rồi. Tôi cũng vậy, từ lúc di cư vào nam đến nay, đi tứ xứ trên bốn vùng chiến thuật, nên tôi không biết tôi nói giọng gì nữa! Duy chỉ còn dùng vài danh từ “Bắc Cờ” khi viết văn, viết báo.

- Anh, anh nói đàn bà khó tha thứ cho người phạm tội lỗi là đúng. Đâu dễ tha cho kẻ ngoan cố, giả vờ ăn năn, không thể giả vờ qua mặt đàn bà được đâu, vì đàn bà có giác quan thứ sáu, rất tinh ý và nhạy cảm lắm. Cho nên, khi đã tha là đã nắm vững đối tượng thật sự đã từ bỏ tội lỗi, chứ còn ỡm ờ là không đặng với các mẹ đâu đấy. Do vậy, có lần em nghe ba bà mà cãi với một ông về ba cái chuyện lăng nhăng của các ông các bà có chức trong một chùa hội. Về phía ông, ông nói: “Họ đã ăn năn rồi, chính tôi biết”. Về các bà, các bà nói: “Chưa ăn thua gì, vẫn còn, giả vờ lui một bước, để bước tới mười bước đấy!” Nói như mấy bà đó, đúng là đàn bà tụi em khi thấy biết là thấy biết rất chính xác. Anh không nghe người đời thường nói: “Miệng đàn bà nói thế mà thiêng” à! Nhưng riêng em, em sẽ tha thứ hết cho mọi người nào lầm lỗi, không trách móc, không liên đới, im lặng là vàng, để cho đối phương tự biết, như vừa rồi em đã nói “Mặc tẩn” tức là thái độ cách ly trong tha thứ.

- Kể cả? Đạt hỏi.

Hà hỏi lại:

- Kể cả ai, mới được?

- Còn ai vô đó nữa! Nếu trong tương lai gặp một ông chồng, ông ấy ưa nhậu nhẹt, bài bạc, lân la ở quán xá, chưa nói là có bồ nhí đấy nhé. Lúc đó cô có tha thứ không?

- Em sẽ thực hiện hạnh Bồ Tát Hằng Thuận Chúng Sanh như anh đã nói, tức là chìu theo trong lúc chồng em đang say vì chất men lục dục thất tình đó. Rồi chờ cho đến khi nào chồng em tỉnh lại, em đưa cho ly nước cam lồ. Như thế là tha thứ rồi chứ còn gì nữa.

Đạt co bàn tay phải, chống lên má, suy tư trong giây lát sau lời Hà, rồi nhấn mạnh:

- Nói là phải nhớ, ghi tạc vào lòng đấy nhé. Vì hễ tâm móng ý để phát sinh ra lời nói có tánh cách quyết định điều gì, điều đó được ghi nhận (record) vào tạng thức, từ đó lời nói ra điều gì nó sẽ trở thành “chủng tử định nghiệp”. Khi thành chủng tử định nghiệp, thì chạy trời không khỏi nắng. Nói lung tung từ nãy giờ, quên hỏi cô đến đây bằng phương tiện gì vậy?

- Dạ, em đến bằng Honda, em để xe ngoài hè kia kìa. Hôm nay thứ bảy anh có định đi đâu không?

- Có. Lâu lắm, thứ bảy nào tôi cũng ở nhà, hôm nay thì lại đi nhằm lúc cô đến nhưng, đến sáu giờ chiều mới đi lận, đi dự party của một anh bạn ở Phong Lan. Anh ấy vừa ra trường khóa mười bảy đốc sự hành chánh cả tháng nay. Hôm nay mới về thăm nhà, nên có tổ chức một bữa tiệc, mời bạn bè, bà con quen biết đến chia vui với ảnh.

Nghe bữa tiệc có vẻ lớn lao. Thật ra chỉ là một bữa cơm thịnh soạn khác hơn ngày thường thôi. Chứ thời buổi gạo châu cũi quế, vật giá leo thang này, nếu rủ nhau ra tiệm ăn, dù là một tiệm nhỏ cũng phải mất gần chục xấp, còn đến một nhà hàng lớn lại càng tốn kém hơn! Tổ chức tại nhà ít hao, đông vui, ấm cúng, mang tính chất gia đình, nên những người đến chung vui không ai vô đó, toàn là bà con trong làng. Đến với nhau ngoài một món quà mọn ra còn có một món quà quan trọng nhất, đó là lời chúc tụng mừng nhau là lễ nghi tình đời ắt phải có, nó là một nghĩa cử bày tỏ tấm lòng quý mến nhau khi vinh danh hiển đạt đăng khoa, lúc thiếp hồng trao tay.

Sự góp mặt trong giờ phút tình đời ấy ai cũng phải chúc tụng cho người hiển danh đỗ đạt thường gọi là đại đăng khoa, còn thiệp hồng trao tay là tiểu đăng khoa. Sở dĩ nói đại và tiểu đăng khoa, là vì thời xưa người trai lo ăn học, đỗ đạt đâu vào đó, có chức phận sự nghiệp rồi mới lập gia đình. Do vậy, trong giờ phút góp mặt chúc nhau, có câu: “Đến đây không hát thì hò, không phải con cò ngóng cổ mà nghe”. Đó là âm vang của sắc thái sinh hoạt vui nhộn. Tình đời chính là chỗ đó. Trong tình đời có tình đạo, vì đạo từ trong đời mà ra. Vì vậy đa số người đến tham dự là các anh chị em trong đại gia đình Phật tử, vì anh ấy là cựu huynh trưởng Gia Đình Phật Tử. Dù bao nhiêu năm xa cách đoàn cho việc học hành nhưng, tình áo lam không nhạt phai. Tình áo lam có cả áo tràng lam nữa đó nghe, chứ không phải chỉ có riêng sơ mi lam và áo dài lam của Gia Đình Phật Tử không thôi đâu nhá!

Bà Lộc từ ngoài vườn đi vào, nắm trên tay một bụm rau thơm: kinh giới, quế, tía tô, thẳng tới bếp, loay hoay ở đó khiến cho Đạt nói nho nhỏ vừa đủ nghe, còn Hà ngồi im phăng phắc.

Sau khi bỏ rau vào thau xong, bà Lộc đến gần bàn, tươi cười bảo Đạt:

- Tiếp khách, sao lại tiếp ở nhà bếp, không tiếp ở phòng khách nhà trên? Còn nước uống, sao con không nấu nước sôi pha trà?

Đạt ngồi yên không nói, Hà cười chúm chím, đưa đôi mắt đen tròn xoe nhìn bà Lộc, nhìn Đạt, đỡ lời:

- Dạ thưa bác, cháu không quen uống trà, cháu chẳng phải khách khứa gì, xin bác đừng bận tâm.

Hà vừa dứt lời, Đạt vừa nói vừa cười:

- Thưa mẹ, cô này thích uống nước lã giống con. Và hơn nữa, cô là khách đặc biệt nên tiếp ở bếp.

Bà Lộc từ bên bếp nói vọng qua:

- Khách văn chương, khách phú quý, khách đạo, khách đời, trong quan khách, khách nào cũng là khách, nên tiếp cho đàng hoàng. Còn không nhớ ba con thường nói: “Quân tử bất đáo trù” mỗi lần thấy con vô bếp nấu nướng. Câu đó có nghĩa là người quân tử không được vào nhà bếp. Cũng như tại tu viện, chùa, ngoài vị sư quản lý ra, các sư khác không ai được vào nhà bếp.

Sự có mặt của Hà làm cho bà Lộc cảm thấy niềm vui chợt đến chợt đi trong lòng. Rồi những hình bóng con dâu, cháu nội mà bà đã ước mơ, nay không nghĩ đến tự nhiên xuất hiện trong tâm thức. Bà đang thấy có đứa trẻ chạy tung tăng trong nhà, nói bập bẹ, bi ba bi bô. Có đứa con dâu thân hình cao ráo, đẹp thùy mị, có mái tóc cột đuôi gà, mặc áo cánh màu nâu nhung đen để lộ đôi cánh tay trắng nõn nà, quần xa tanh đen bó sát đôi chân thon dài đang ngồi tréo chân trên đầu đi văng lặt rau, với đôi mi dài đen đen, cong vểnh khi nhìn xuống làm cho bà xoay chiều ý nghĩ. Bà liền để ý đến nơi Hà, bà cảm thấy tình thương của bà đang đổ về cho Hà khi nàng đang có mặt thực thể tại bàn. Do vậy, bà không muốn Đạt tiếp Hà ở bếp, bà muốn Đạt và Hà lên nhà trên. Không phải vì khói của bếp lò, mà bà muốn cho hai người được rộng đường tự do gây duyên kết trái với nhau. Chứ thật ra, bạn của Đạt, Tân Phước, mỗi lần đến nhà đều cùng nhau lê la ở bếp, mà bà đâu có thèm quan tâm đến làm gì!

Sau lời khẳng định cách tiếp khách của bà Lộc, Đạt nhìn Hà nói nhỏ:

- Chắc là phải lên nhà trên, chứ ngồi đây, sau khi cô về, tôi sẽ bị bà già rầy cho một mách đấy. OK hả, mời cô lên nhà trên!

Trên đường lên nhà trên, Đạt đi mau trước Hà đến mấy bước để cho kịp cất đi những sách, vở, báo chí trên bàn. Rồi vội mở tung cửa sổ, cửa lớn để cho căn phòng được sáng thêm mà Đạt cảm thấy cần phải thật sáng như để bày tỏ cho Hà thấy lòng quang minh chính đại của mình. Cũng như để cho Hà được an tâm không ái ngại khi nghĩ đến những gì nàng sẽ nghĩ.

Sau vài chục tich tắc căn phòng được tươm tất, sẵn sàng đón chào người khách quý, Đạt liền mời Hà:

- Mời cô ngồi tạm đây, nhà cửa như thế này mà vẫn còn chật hẹp! Cô thấy không, bàn thờ Phật và ông bà đối diện với bàn khách như thế này là không đúng, mất trang nghiêm. Nên phòng này, đặc biệt khi nào có chư tăng và các bác cư sĩ đến mới mời ngồi đây. Cô là khách quý mới được tiếp tại đây đó nghe! Thật lòng mà nói, khi hồi tôi đã nhấp nha nhấp nhỏm dự định mời cô lên đây nhưng, vì mải mê nói chuyện nên quên mất. Đến lúc bà già nói mới sực nhớ, tiếp cô trên này mới đúng cách. Xin cáo lỗi sự sơ suất đó nghe!

- Ấy, anh lại khách sáo với em nữa rồi! Em là khách theo nghĩa trong, chứ không phải là khách theo nghĩa ngoài.

- Nghĩa trong là nghĩa gì, nói nghe xem nào!

- Thôi, em không nói đâu. Lần sau em đến, anh cho em ngồi dưới bếp là trả lời cho anh rồi đấy.

- OK, được rồi, lần sau cho cô ngồi ở bếp, đó là sự yêu cầu của cô đấy nhé! Chứ với tôi, trước sau như một, không phải lúc đầu ca ngợi, khen đáo khen để, đậm đà tình bạn, đến lúc sau lại thờ ơ lạnh nhạt, xem thường nhau vì lẽ này, lý do khác. Nếu như thế, bởi tâm con người còn phân chia cắt xen, thấy lợi, thấy hại gì đó ở đối tượng.

Nè, nãy giờ tôi nói liên miên bất tận, quên hỏi thăm hai bác trên nhà có được an khương khỏe mạnh không? Còn Minh và Khánh khỏi hỏi, vì chủ nhật nào mà chả gặp.

- Dạ, cảm ơn anh, ba má em vẫn khỏe mạnh luôn.

- Cô về thưa lại với bác trai là trên Chùa Bảo Quang đã thành lập Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam, xin mời bác vào sinh hoạt cho vui. Nghe nói bác giỏi nghi lễ và giáo lý, được bác giữ cho trưởng ban tu học và nghi lễ thì hay biết mấy! Cô nói với bác về vai trò của Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam là tập thể rộng lớn có tầm vóc quốc gia, được quy tụ những người Phật tử có lòng vì đạo pháp và dân tộc, biệt trọng Phật kính tăng, đoàn ngũ hóa lại với nhau để trợ duyên tâm pháp cho cư sĩ trên cơ sở phát triển trí tuệ. Nghĩa vụ và bổn phận của Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam là phụng sự Tam Bảo chung cho tất cả các giáo hội, không phân biệt Nam hay Bắc Tông, vì giáo hội nào cũng có vô số tăng bảo trong đó, cũng như chùa nào cũng thờ vô số chư Phật, Bồ Tát, Chư Tổ, Chư tôn giáo phẩm tiền bối, các quân nhân Phật tử VNCH đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, các cư sĩ, các thánh tử đạo vong thân vì đạo pháp và dân tộc. Tâm thức của mỗi người cư sĩ Phật giáo Việt Nam như là một ngôi Tam Bảo thực thể, nên tăng thân là nơi thờ phượng đầy đủ tất cả chư vị trong lòng.

- Vâng, em sẽ về thưa với ba em, chắc là được thôi. Vì hôm trước Minh có nói chuyện đó với ba em sau khi nó sinh hoạt về. Thấy ổng có vẻ vui lắm và hỏi tới tấp về Hội Cư Sĩ với Minh. Còn ba anh có khỏe không? Nghe nói ông cụ về tu tại chùa nào tại làng Dạ Thảo?

- Đúng rồi, cụ tôi về tu tại chùa Sơn Khê, làng Dạ Thảo lâu rồi. Chùa đó lấy tên quận đặt cho tên chùa luôn, do ông anh con bác làm trù trì. Thỉnh thoảng cụ tôi có về thăm, cụ mới vừa về cách đây tuần. Còn phần cô, lâu nay có gì vui không?

- Cảm ơn anh, em lúc nào cũng vui, vui từ thuở ấy đến nay.

- Thuở ấy là từ bao giờ? Phải có khởi điểm thời gian chứ!

Hà ngồi im, đôi mắt nàng nhìn lặng lẽ qua khung cửa sổ có ánh nắng ban trưa đang lui dần chia đôi bệ cửa một nửa trắng bạc một nửa trắng mờ  khi mặt trời từ phía nam đang chiếu vào. Như sực tỉnh lại, nhớ câu hỏi Đạt, Hà đáp lời khi đôi mắt nàng vẫn dán lì trên bệ cửa trước mặt:

- Thuở ấy… tức là sau ngày Phật đản cho đến nay.

- Có thế mà cứ ngập ngừng! Ồ! Tôi lại quên nữa rồi! Uống thêm nước nhé, để tôi đi lấy.

Nhịp nhàng theo cùng với lời nói, Đạt liền đứng lên. Hà thấy Đạt đứng dậy, nàng liền buột miệng:

- Dạ thôi, dạ thôi! Em không uống nữa, anh đừng lấy.

- Đừng lấy? Tốt lắm! Mùa đông uống chi cho nhiều mất công đi ngoài. Bây giờ mời cô ra vườn xem hoa, nhìn trái cho vui. Thời điểm mùa đông, xem hoa giờ này là đúng cách, chứ sau giờ ngọ mặt trời xế bóng làm cho hoa ủ dột bởi ánh nắng có pha lẫn màn sương chiều. Còn vào mùa xuân, mùa hè, nên xem hoa vào lúc chín giờ sáng, nếu xem vào mười giờ trở lên, ta sẽ thấy màu hoa ít sặc sỡ hơn. Xin mời cô!

Bước xuống khỏi ba tầng cấp trước nhà, Đạt rẽ trái, đi vào khu vườn nhỏ hướng Tây Bắc. Nơi có những cây mai đầu vườn, một vài cây sa-pô-chê ở cuối, vài ba cây ổi xá lị trồng dọc theo bức tường gạch vôi trắng đang đổi màu xanh rêu. Đạt dừng chân giữa những cây mai, quay mặt về hướng Đông Bắc, cũng vừa lúc Hà đứng sát bên hông phải Đạt, làm cho hình bóng của nàng nương tựa, trải dài lên thân hình Đạt. Nó rung rinh, chập chờn trên áo vải và mặt mày chàng trong nắng trưa. Đạt nhìn cây mai trước mặt, đưa tay vuốt nhè nhẹ hơn một lần trên cành lá cứng cõi, nói với Hà:

- Đây là loại mai vàng, chứ không phải bạch mai. Nghe nói bạch mai khó trồng lắm. Vì lẽ ấy mà ba tôi ổng không trồng. Cây mai biểu tượng cho mùa Xuân, nên bài hát “Đồn Vắng Chiều Xuân” do ca sĩ Chế Linh hát, có câu: “Đồn anh đóng ven rừng mai, nếu hoa không nở, sao anh biết xuân về hay chưa”. Tức là mai phải nở hoa vào mùa Xuân, dù có nở muộn. Mà như thế cây mai rụng lá trong mùa Đông. Nói đến cây mai rụng lá và nở hoa muộn, tôi còn nhớ hồi xưa ở lớp đệ Tam C, học Việt văn với giáo sư thi sĩ Quách Tấn. Một hôm nọ học về thơ Đường luật, giáo sư cho học sinh thực tập làm thơ sau khi giảng xong bài. Tôi có làm bốn câu thất ngôn tứ tuyệt, chủ đề thơ là “Hoa mai nở muộn”. Bốn câu như thế này. Ô! Nhưng mà cô có thích nghe hay không đã, chứ?

- Em thích nghe chứ, sao không! Anh đọc cho em nghe đi nào!

- Thơ dở lắm, đừng chê nghe! Đại khái thế này:

 

Muộn màng mai nở một cành hoa

Đêm vắng phòng riêng ta với ta

Chợt tỉnh mới hay hoa nở muộn

Xem ngày thấy rõ đã mồng ba.

 

Tôi làm xong trước hết, nộp lên bàn. Giáo sư Quách Tấn liền cầm lên xem. Từ dưới lớp nhìn lên, tôi thấy ổng gật gật đầu với nụ cười, làm cho tôi nghĩ thầm trong bụng, chắc là sai bét cả rồi! Nhưng khi bình phẩm bài thơ của tôi, giáo sư nói: “Bài thơ Hoa mai nở muộn của trò Đạt không hay lắm nhưng đúng luật”. Tôi nghe mà lòng mừng hết lớn. Sau đó, giáo sư Tấn nói cho cả lớp biết về mai nở hoa sớm và muộn do thời tiết lạnh nhiều hay ít trong mùa Đông. Muốn cho mai nở hoa nhiều và đúng vào dịp Tết, ta phải truốt hết lá vào giữa tháng mười ta. Nếu để cây mai tự rụng lá, nó sẽ nở hoa sớm hơn hay muộn. Vì mai già nó rụng lá mau, còn cây mai non rụng lá chậm. Do vậy, mai già có hoa sớm, mai non có hoa chậm. Đúng hơn hết, cây non, cây già gì đều được lặt hết lá.

Thấy Hà đứng im, đôi mắt nhìn xuống những chiếc lá vàng đã rã mục đang nằm duỗi mình trơ xương, lẫn lộn với đám cỏ chỉ vàng hoe ngoan cố chưa chịu tan rã, vẫn còn lắc lư trước gió trên mặt đất trắng sát của thời điểm không gian đi vào mùa khô, Đạt hỏi:

- Cô đang mơ gì vậy? Hay là đang suy tư về bài “Hoa mai nở muộn” của tôi? Cô đừng sợ muộn như hoa mai, mới hai nhăm mà sợ gì!

- Anh lại chọc quê em nữa rồi! Em đâu có suy tư. Vì nghe anh nói về hoa mai nở muộn làm cho em suy nghĩ nhớ lại hai câu thơ về mai nở hoa muộn của Thiền Sư Mãn Giác đời Lý.

- Nhớ lại chưa? Đọc nghe coi!

- Em nhớ rồi, không biết có đúng không! Đọc, nếu có sai, anh sửa cho nhé. Em đọc nguyên văn chữ Hán và Việt được dịch ra:

 

“Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền, tạc dạ, nhất chi mai”

(Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai)

 

Nghe Hà đọc xong, Đạt khen ngợi:

- Đúng, nhớ giỏi lắm! Không sai chữ nào. Nhưng mà cô có thích hoa mai không?

            - Em thích hoa mai lắm chứ. Vì hoa mai là hoa của ngày Tết, nên khi Tết đến, dân Việt Nam nhà nào mà chả có một cành mai trên bàn thờ ông bà, nhất là trong miền Nam. Em thích hoa mai thực thể trong rừng, trong vườn như thế này, chứ em không thích hoa mai trên cầu vai áo của các anh sĩ quan QLVNCH!

            - Í! Nói như thế, lỡ ra có anh sĩ quan nào ảnh nghe được, ảnh rầy đấy nhé. Người đẹp mà không thích hoa mai nở trên cầu vai áo lính của sĩ quan QLVNCH là uổng lắm đấy! Biết sao không? Vì cây mai và hoa của nó là một trong vô lượng vật thể trên vũ trụ vạn hữu đã đi vào lòng người. Khiến cho tâm hồn con người phát sinh ra lời thơ, khúc nhạc ca ngợi về nó, cũng giống như ca ngợi về sỏi đá, dòng sông, núi non… Nên hoa mai được có mặt trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam qua văn thơ và nhạc. Do vậy, cây mai và hoa của nó đã tạo cho dân tộc Việt Nam một tập tục văn hóa đón Xuân (Tết) bằng hoa mai, cùng với nó có bánh chưng, bánh tét, tràng pháo, dưa hấu… Từ đó người ta dùng hoa mai vàng, trắng làm biểu tượng cho cấp bậc của sĩ quan QLVNCH là đúng với trên cơ sở văn hóa. Vì một thanh niên miền Nam Việt Nam, muốn trở thành một sĩ quan QLVNCH trong các ngành, các binh chủng, tối thiểu phải có văn bằng tú tài một trở lên để theo học khóa sĩ quan trừ bị tại quân trường Võ Bị Thủ Đức. Còn muốn trở thành sĩ quan hiện dịch phải có văn bằng tú tài hai ban B, nhưng cũng phải được thi tuyển vào trường Võ Bị Đà Lạt.

            Từ chỗ đó, vấn đề dùng hoa mai vàng, trắng để phân chia cấp bậc cho sĩ quan QLVNCH trên cầu vai áo trận, áo lễ không phải là không mang ý nghĩa về văn hóa. Có lẽ người nào có sáng kiến lấy hoa mai làm huy hiệu cho sĩ quan, chắc chắn người ấy đã nhìn thấy cây mai có nhiều vấn đề liên quan đến người lính sĩ quan QLVNCH. Trước hết, về lãnh vực văn hóa, hoa mai đã đi vào tập tục văn hóa dân tộc Việt Nam ở hình ảnh đón Xuân trong ba ngày Tết. Thì, một sĩ quan QLVNCH là biểu tượng văn hóa dân tộc bằng sự chỉ huy người lính chiến đấu diệt cộng sản đúng chiến thuật, chiến lược, binh thư trên các mặt trận. Được như thế là do có văn hóa. Vì văn hóa là mẹ đẻ ra tinh thần “Tự thắng để chỉ huy” cũng như đạo đức của sĩ quan.

            Thứ đến, về lãnh vực vật thể sinh tồn, cây mai là một loài cây thân và lá của nó cứng cáp, rễ ăn sâu vào lòng đất dù có mọc trên đất cứng có sỏi đá, nó vẫn đứng vững chãi ngang nhiên trên mặt đất suốt bốn mùa trong không gian, dưới bầu trời có sương gió, nắng mưa, nóng và lạnh. Do vậy, nói về cây, nó là một loại cây như cây gai, cây dẻ trong rừng. Nói về hoa, cây mai là một loài hoa, loài hoa dễ yêu, đã làm cho thi sĩ, nhạc sĩ phải sáng tác ra lời thơ, lời nhạc ca ngợi nó. Nên hoa mai đã đi vào nền văn hóa dân tộc. Người sĩ quan QLVNCH cũng giống như cây mai kia. Vì thể chất, thân tướng của sĩ quan QLVNCH luôn luôn chắc nịch và khỏe. Ở bất cứ đâu, núi rừng, ruộng đồng, sông rạch, biên cương… ở đó có sương gió, mưa dầm, giá lạnh, nóng bức… người sĩ quan QLVNCH vẫn chịu đựng, hiên ngang tiến bước trên đường hành quân diệt Cộng mà lòng vẫn thấy mùa Xuân trước mặt như hoa mai kia đang nở trên vai áo trận.

            Hoa mai trên vai áo sĩ quan và hoa mai trong rừng, trong vườn đều cùng một sắc thái như nhau, cùng bản thể tánh không. Nên văn thơ, lời nhạc nói về người sĩ quan QLVNCH bao nhiêu thì hoa mai cũng được nói đến bấy nhiêu trong văn thơ.

            Ngoài hai câu thơ mai nở hoa muộn của Thiền Sư Mãn Giác đời Lý ra, cô còn nhớ bài thơ nào nói về hoa mai nở muộn không?

            - Còn, em còn nhớ một bài.

            - Xin cô đọc cho nghe!

            - Rồi nhé, em đọc nha:

            Muộn màng mai nở một cành hoa

            Đêm vắng phòng riêng ta với ta

            Nghe Hà đọc đến câu thứ hai, Đạt liền cắt ngang:

            - Ô! Mấy câu thơ đó của tôi mà!

            - Ừa! Thì thơ của anh, em đâu có nói của em hay của ai! Tại vì anh hỏi em còn nhớ bài thơ nào nữa, nên em nhớ bài thơ của anh, đọc cho anh nghe.

            - Nhưng mà! Đạt ngập ngừng.

            Hà hỏi lại

            - Nhưng mà sao?

            - Vì thơ của tôi dở lắm! Thơ của học trò đâu phải của các thi sĩ danh tiếng! Cô đọc, tôi cảm thấy mắc cỡ lắm!

            - Anh nói thế nào ấy! Người mà nói ra văn ra thơ, đâu phải ai cũng nói được, do có chất văn hóa bên trong mới nói được chứ! Anh nói như thế, vô tình anh tự phủ nhận chất văn hóa có trong người anh hay là anh khiêm nhường với em?

            - Cô nói tôi khiêm nhương thì hơi quá đáng. Vì tôi chả có danh, cũng không có thực, lấy đâu mà khiêm với nhường! Sở dĩ người nào đó có trang thái khiêm nhường và lời nói khiêm nhường là vì họ có thực danh. Có danh rồi muốn nêu danh, nên khiêm nhường là lối phô trương tự ngã siêu đẳng và tinh vi nhất của kẻ phàm phu có thế gian trí trước lời khen của người khác. Theo danh từ Phật học gọi là “xưng” tức lời khen trước mặt. Người phàm phu được ai khen trước mặt, lòng cảm thấy khoái chí. Nó là một trong tám thứ vô minh cực động nhất “lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc”. Tám thứ này còn gọi là tám ngọn gió lốc làm cho tâm con người nổi cơn thịnh nộ, giận dữ, buồn đau, khoái cảm, hỷ hả, lo âu, rã rời. Ngoài ra còn có thêm bảy thứ: “Hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục”.

            Có câu chuyện nói về một Phật tử trí thức đã có quá trình học Phật và hành trì Phật pháp nhưng, vẫn còn bị một trong tám ngọn gió lốc làm lay động tâm thức. Người đó là ông Tô Đông Pha. Ông ta là một Phật tử có học Phật pháp và hành trì tu luyện giáo pháp. Nhưng lòng ông ta vẫn còn tự ngã, chưa đạt trí tuệ bình đẳng, nên trong hàng tăng bảo thời đó, ông chỉ kính phục đức Phật Ấn mà thôi. Một hôm nọ ông chèo đò qua chùa thăm Tổ. Nhằm lúc Tổ đi vắng, ông gởi lại cho Tổ một tờ giấy, trong đó có ghi mấy lời: “Thưa ngài, từ nay Tô Đông Pha này không còn bị tám ngọn gió lốc làm lay chuyển tâm thức nữa. Tâm của Tô Đông Pha rất là thanh tịnh và bình đẳng.”

            Khi đức Tổ Phật Ấn về, thầy tri sự trình tờ giấy cho Tổ. Tổ xem xong, lật trang sau, ngài đề vỏn vẹn một chữ “RỞM”. Rồi đức Tổ bảo thầy tri sự chèo đò qua sông đưa cho ông Tô Đông Pha. Tô Đông Pha xem trang sau thấy có chữ “RỞM”, ông liền tức tối, vò ngấu nghiến tờ giấy trong hai bàn tay, rồi xé vụn ra từng mảnh. Ông giận dữ suốt đêm, không ngủ, nằm thao thức mà ức trong lòng, chờ cho trời mau sáng để qua chùa gặp Tổ mà nói cho hả dạ. Nên trời vừa tờ mờ sáng, Tô Đông Pha xuống bờ sông khi khói sương còn chập chùng lơ lửng trên mặt nước, ông chèo đò qua chùa. Ông vừa bước vào sân chùa tại nhà đông, gặp ngay đức Tổ đã đứng sẵn ở đó, ông chưa nói được gì, đã bị đức Tổ nhìn vào mặt, ngài vừa cười vừa nói: “Đã nói rằng không còn bị tám ngọn gió lốc làm chi phối tâm thức nữa, sao ông lại chèo đò qua đây sớm vậy?”

            Sau lời của Tổ Phật Ấn, Tô Đông Pha đứng im sừng sững trong giây lát, rồi chấp tay bái Tổ mà quay lui xuống lại bờ sông.

            Đối với kẻ phàm phu có thế gian trí, nếu bị chê trước mặt, họ dùng lời lẽ rất là chua cay, đanh thép để đáp lại người chê, như là: “Ông là cái thớ gì mà dám…, ông đâu phải là hạng người như tôi, ông biết gì về chuyện ấy, ông không xứng đáng để tôi nói chuyện…” Nếu được khen, họ dùng lời nói nghe qua có vẻ hạ mình sát đất, khiêm nhường với lời lẽ: “Dạ không dám ạ, ông dạy quá lời, xin tha cho, đâu có gì, không có chi, không dám nhận…” Nhưng thật sự lòng dạ họ đang khoái cảm lâng lâng lên tận trời xanh.

            Thôi, vấn đề đó xin gói lại gởi vào văn khố quốc gia. Bây giờ xin mời cô qua bên kia xem hoa lan.

            - Khoan, khoan đã!

            - Cái gì nữa đây? Đạt hỏi.

            - Em chưa hiểu rõ ý tưởng của hai câu thơ “Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai

            - Chà! Hơi khó à nghe! Cô có ý định bắt bí tôi phải không, vậy?

            - Em không hiểu thật mà, anh đâu có bí mà bắt!

            - Được rồi, chặp nữa tôi sẽ nói, bây giờ đi xem hoa lan. Đúng ra, cô phải hỏi mấy vị sư thì rõ hơn, chứ cư sĩ như tôi không thể hiểu hết ý hai câu thơ đó. Tuy nhiên, vì cô hỏi, buộc lòng tôi phải nói. Nếu sau này, cô có được nghe ai giảng khác hơn tôi, tức là lời tôi sắp nói đến đây có thể không đúng lắm, theo tôi thấy vậy!

            Đạt và Hà lững thững đếm bước trên con đường lát gạch hướng về mái hiên nhà, nơi có treo lủng lẳng nhiều loại lan trong giỏ bằng tre, bằng thủng gỗ. Những cành lá của chúng, một số vươn lên nghiêng ngả, một vài chĩa ra, là đà, cụp xuống. Một ít rễ cứng cõi, đen xám và nhọn hoắt đang thòng xuống như những con cò thò chân sắp đáp xuống đồng cạn không hàng lối.

            Đối diện trước giỏ lan, Đạt ngước lên, đưa ngón tay chỉ  và giới thiệu cho Hà biết về từng loại lan một. Nàng nhìn và chăm chú lắng nghe một cách say xưa, đến nỗi như quên đi đôi chân, làm vô tình có lúc chạm phải chân Đạt khi nàng nhích chân qua, nhích chân tới theo bên cạnh Đạt mỗi lần thay đổi vị trí để qua giỏ lan khác.

            Đến cuối mái hiên, Đạt đứng lại, vói tay xoay chiều một giỏ lan để những cánh hoa từ trong vách được quay ra trước mặt, rồi giới thiệu:

            - Đây là một loại lan mà hoa của nó có hình thái đặc biệt. Cô thấy không, cánh hoa y như loại hoa sứ nhưng lớn hơn hoa sứ. Còn màu là màu kem, và nhụy của nó giống như con bướm hồng đang đậu, nhịp cánh trên hoa để hút phấn. Từ chỗ này cho ta biết thêm về ong và bướm đều ưa đậu lên nhụy hoa. Ong tìm hoa đậu lên để hút mật, còn bướm đậu lên hoa để hút phấn. Làm kiếp hoa cũng khổ! Luôn bị hai loài ong bướm hút mật, hút phấn làm cho đau đớn xác thân!

            Nói xong về hoa lan cánh bướm, Đạt quay qua phía Hà, miệng chàng mấp máy như sắp nói thêm điều gì nhưng, Hà đã giành trước:

            - Anh còn nợ em hai câu thơ đó nghe! Anh có chạy làng không, thì nói?

            - Cô đã khẳng định tôi không có bí, làm sao chạy làng được! Rồi, bây giờ ta đứng ngắm lan mà nói về mai. Hai câu thơ nói về hoa mai nở muộn của Thiền Sư Mãn Giác đời Lý đó, hoàn toàn chỉ về cây mai mà thôi. Vì câu hai ở vế chót có cụm từ “nhất chi mai” (một cành mai). Về nghĩa đen ở cụm từ “Xuân tàn” tức là mùa Xuân được chấm dứt cuối tháng ba âm lịch, chứ không phải sau ba ngày Tết theo lời văn “Xuân tàn”. Cho nên nói hoa mai nở muộn sau mùa Xuân là chỉ cho cây mai trong rừng, trong sân chứ không phải cành mai cắm trong độc bình trên bàn thờ ông bà hay ở tại phòng  khách trong nhà.

Vấn đề hoa mai nở muộn là lẽ thường. Vì ít ai biết nên thiền sư nói cho mọi người được biết: “Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết”. Thiền sư nói hoa mai nở muộn là do thời tiết ấm lạnh không đều đặn ở mùa Đông và Xuân, nên có một vài cây mai nở hoa vào mấy ngày đầu của thượng tuần tháng tư ta. Vì vậy, mặc dù tháng tư đầu mùa hạ nhưng, khí hậu về đêm của tuần lễ đầu tháng tư còn hơi lành lạnh. Với người, ta nghe trời lành lạnh về khuya, còn cây cối hoa lá là tiết Xuân của chúng, nên chi làm cho cây mai nở cuối mùa. Nhất là cây mai con vừa lớn đủ sức nở hoa nhưng, có khi vào mùa Đông trời ít lạnh, nó rụng lá chậm và nở hoa chậm.

            Với nghĩa bóng, thiền sư nhắn nhủ với mọi người rằng: “Đừng có tưởng những bậc cao tăng già nua đã viên tịch hết mà không có tăng trẻ nối gót truyền thừa hoằng dương chánh pháp hóa độ quần sanh, vì vậy mà thiền sư nói: “Đừng tường Xuân tàn hoa rụng hết”. Đích thực, đêm qua trên thế gian này nhiều bông hoa trí tuệ đã thị hiện vào loài người với hạnh nguyện cứu khổ chúng sanh (Đêm qua sân trước một cành mai). Sự truyền thừa, nối gót các bậc sư trưởng tiền bối, cũng như sự có mặt của Phật giáo tại thế gian là một định luật ắt phải, như cây tre già tàn đi, có cây măng non mọc lên. Ở đây có chúng sanh hữu tình, ở đó có tăng bảo và giáo pháp Phật xuất hiện. Vì sự hiện hữu của giáo pháp là phi thời gian. Do vậy, cũng đừng có tưởng thân già, chết đi là mất trí tuệ. Hoa trí tuệ không bao giờ bị rụng, chỉ có hoa do tứ đại hợp duyên mới rụng.

            Đang nói, bỗng dưng Đạt nín thinh, ngước mặt lên, đưa tay đỡ một cành lan có những đóa hoa, cánh nhỏ, vàng sậm, san sát nhau như bầy bướm đang nhịp cánh, nhởn nhơ chuẩn bị đậu lên cành lan đang cong mình ra khỏi giỏ. Đạt cho cành lan ấy nằm chéo qua sợi dây treo, miệng nói:

            - Vấn đề bình phẩm thơ để tìm cho ra ý tưởng của tác giả, khó lắm! Nhất là thơ của các vị thiền sư ưa “văn dĩ tải đạo” tức là dùng lời văn ở thơ để diễn nói về đạo lý. Chỉ có tăng, nhưng tăng phải có trình độ thâm sâu đạo lý mới hiểu ẩn ý của tác giả, chứ còn tơ lơ mơ ngồi cắn bút suy tư, huống hồ cư sĩ phàm phu như tôi! Có diễn nói, là nói cho vui chơi có tính cách giới hạn ở phạm vi giữa tôi và cô. Chứ nói trước quần chúng, thì lo lấy thùng tô nô để chứa đựng lời chê của cử tọa ban cho. Cô có ý kiến gì không? Phải phát biểu ý kiến đi, chứ mai kia mốt nọ, nghe ai giảng khác hơn, chừng đó sẽ có sự so sánh trong lòng. Nói bây giờ để được mất lòng trước mà được lòng sau. Nếu không, mời cô qua bên kia xem hoa hồng, ta vừa đi vừa trao đổi.

            - Theo em thấy, nếu ai có giảng, chắc là không ngoài hai ý nghĩa như anh đã nói.

            - Riêng tôi, tôi thấy còn nhiều ý nghĩa thâm sâu khác nữa ở hai câu thơ ấy nhưng, vì trí tuệ mình còn kém, nên chưa có thể tìm ra. Thôi, vấn đề đó ta cho qua, xin gởi lại cho chư tăng.

            Xong câu chuyện về hoa mai, Đạt đổi hướng, bước đi không lời mời, Hà cũng theo đó đi bên cạnh. Hai người lững thững đi trên lá rụng, cỏ vàng, chợt ẩn, chợt hiện giữa cây cối hoang vu đang co mình trong gió bấc có nắng nhạt mùa Đông, nói chuyện với nhau về hoa, lá, cỏ, cây khi dừng chân trước bụi sa-pô-chê, khi nghiêng mình lách qua cành lá, lúc cúi đầu dưới ngọn cây trước mặt mà âm thanh vẫn rì rầm nhỏ, to.

            Mới dừng chân trước dãy hồng dọc theo bờ tườn hướng đông, Đạt chưa nói gì, Hà đã trầm trồ:

            - Ồ! Đẹp quá, hết sẩy! Loại nào cũng đẹp cả, đâu phải chỉ có loại hồng nhung mới đẹp, mỗi thứ một vẻ mười phân vẹn mười! Anh học cách trồng hồng với ai mà thân to cao lớn, hoa lớn và búp cũng lớn như thế này, hay quá!

            - Chả có học với ai cả, tôi học trong Thiền.

            - Trong Thiền? Em hỏng tin đâu! Trong Thiền chỉ có dạy cho con người thường trực đưa tâm an trú vào chánh niệm khi đi, đứng, làm việc và nói năng, nằm, ngồi. Đó là cách rèn luyện làm cho Tâm luôn luôn thanh tịnh tĩnh lặng, cũng như thường quán chiếu tánh không ở mọi vật để phá trừ dục vọng và bản ngã. Từ đó con người đã có được chìa khóa mở ba cánh cửa giải thoát: không, vô tướng, vô tác, làm gì có bài học nào chỉ cho cách trồng hồng! Anh nói giỡn với em, phải không?

            Đạt nhìn lên bầu trời xanh có đám mây trắng mỏng dài như dãy lụa nằm yên, lơ lửng giữa không gian, một vài giây rồi nhìn Hà nói chậm rải:

            - Sở dĩ cây hoa hồng, thân, cành, lá được xanh tươi, cao, to và có hoa lớn như thế là do người trồng và chăm sóc đến nó, tâm có chánh niệm. Dĩ nhiên, công thức, phương pháp là yếu tố của kỹ thuật được giảng nói trong sách vở nhưng, nó chỉ là mô hình bằng ngôn ngữ văn chương mà thôi. Điều quan trọng ở chỗ đem mô hình đó ra thực hiện cho đúng kỹ thuật theo phương pháp hướng dẫn để thành quả được có chất lượng mới là điều đáng nói. Mà như thế là phải do tâm con người có chánh niệm chỉ đạo cho thân làm việc mới được. Nếu trong việc làm chỉ có thân độc diễn, còn tâm cứ bay nhảy khắp đó đây ở ngoài thân, tức là không chú tâm vào việc, thân làm mà tâm để đâu đâu, công việc kia ắt sẽ không đạt được chất lượng vì thiếu sự điều khiển của tâm. Cho nên, thân tâm hòa hợp với nhau như hình với bóng trên mọi lãnh vực: ăn, làm, tu, học, thiền định, nói năng, đi, đứng, trồng chọt, lái xe… tâm là chủ tể sai khiến thân làm đúng. Thiếu tâm chánh niệm là mất tất cả, ngược lại là được tất cả. Tâm chánh niêm là tâm an trú trong thân, nên nó là con đường thiện, là ngọn đèn sáng làm cho con người thấy được mình có khôn, dại, đạo đức hay vô đạo đức… Con người thường gây ra tội lỗi giai do tâm loạn động không có chánh niệm, thành thử luôn tiếp nhận sự khổ đau vào lòng. Tâm chánh niệm là một sức mạnh vô địch có khả năng phá vỡ ngọn núi thành tro bụi. Tâm chánh niệm được áp dụng trong võ thuật để thắng đối phương, còn gọi là thiền trong võ thuật.

            Tôi trình bày riêng cho cô nghe đại khái đơn sơ như vậy, chứ không dám nói với các người rành việc thiền, vô tình mình múa rìu qua mắt thợ. Biết cô ngây ngô, múa đại một chiêu “trồng hồng theo lối thiền” cho vui chơi. Thế nào, cô có ý kiến gì không?

            - Như vậy, qua lời anh nói, theo chỗ em nghe lóm, hiểu cạn; có phải thiền có mặt cùng khắp trong nền đạo lý Phật giáo, nên từ đó thiền cũng hiện hữu ở các việc sinh hoạt hằng ngày trong đời sống và tu học của con người khi thân làm mà tâm chỉ đạo trong chánh niệm. Thưa anh, có phải vậy không?

            - Riêng về tâm chánh niệm trong các việc sinh hoạt, tu học là đúng, ai đọc nấy biết, ai tu nấy ngộ, khó mà nói thiền cho mọi người được hiểu. Do vậy mới gọi “bất lập văn tự” là chỗ đó. Cho nên hành thiền, mỗi người tự mình tìm ra một cách thích ứng cho mình để đưa tâm vào định. Với tôi, đi làm về, chiều nào tôi cũng ra đây chăm sóc cây cối, hoa lá, khi thì tưới nước cắt cành, khi thì tỉa lá, xới đất, cho phân vào gốc. Sau đó, tôi ngồi rồi đứng, đưa mắt nhìn chăm chú vào từng cánh hoa, từng cành lá và quả của từng cây hằng giờ. Đến nỗi có lúc tôi không nghe tiếng của mẹ tôi gọi tôi nữa cơ! Vì tôi nhìn bằng tâm qua nhãn thức. Đó là giờ phút tuyệt vời đối với tôi. Vì lúc ấy tâm tôi đã cảm nhận, thấy được xác thân của hoa, lá, cỏ, cây có sự sống, có sanh, có diệt do bởi bốn thứ lớn giả hợp tạo thành (đất, nước, gió, lửa), nên tấm thân tôi không khác gì với tấm thân của chúng. Dù hình tướng có sai biệt, nhưng, chúng và tôi được sanh và diệt, trở về không vô ngã do bởi định lý duyên khởi trùng trùng. Cho nên thân tướng của tất cả các loài chúng sanh hữu tình và vô tình đều sẽ bị tan rã thành tro bụi khi các duyên giả hợp ngưng động sinh trưởng. Loài hữu tình: con người và muôn thú. Loài vô tình: đất, đá, cỏ, cây, hoa, lá…

            - Anh! Hà gọi Đạt.

            - Cô có ý kiến? Nghe nói loài hữu tình sẽ bị tan rã rồi sợ, phải không?

            Hà cười tủm tỉm, quay qua phía Đạt:

            - Không, em đâu có sợ thân tứ đại này bị tan rã. Em muốn hỏi anh trồng một nhánh hồng xuống đất, bao lâu nó mới cho hoa?

            - Lời cô hỏi thuộc về lãnh vực trồng chọt, nên chi cô phải lưu  ý bốn điều kiện sau đây: nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Dĩ nhiên đất đai, khí trời và ánh nắng là cơ bản của thiên nhiên ban cho. Còn bốn thứ như đã nói là điều tất yếu quan trọng trong vấn đề trồng chọt. Nên muốn cho cây mau phát triển, có trái sớm, trái tốt… Hoa, mau nảy nhánh, đơm hoa, hoa lớn… ta phải chọn giống tốt, chuyên cần chăm sóc, bón phân, tưới nước. Đó là những trợ duyên làm cây cối, hoa mau có hoa có quả.

            Hà đến từng bụi hồng, ngồi xuống ngắm nghía tận trong gốc, rồi đứng lên đưa tay mân mê những cánh hoa, rờ mó vào cành, lá trong lúc Đạt đứng ở cuối tường đưa tay kéo những cành tường vi đang ngả nghiêng chéo nhau, gục đầu, đưa lên cho nằm dựa vào tường. Bỗng nghe ở Hà có tiếng úi cha, Đạt liền bước vội lại:

            - Cái gì mà la vậy?

            - Em bị gai móc vào tay rồi nè!

            - Đã biết hoa hồng có gai mà cứ rờ mó vào để bị gai móc, cô này thiệt là! Bị sâu hay cạn, có chảy máu không?

            - Dạ chưa đến nỗi, có chút xíu thôi. Anh trồng hồng, anh có bị gai móc vào tay không vậy?

            - Có chứ, làm sao khỏi, cuộc đời mà cô! Cho nên trồng hồng là một trong muôn ngàn hành động đi vào đường đời. Đường đời có vạn nẻo quanh co, nẻo nào cũng có hầm hố, chông gai, cạm bẫy. Từ một việc được xem là nhỏ như cầm con dao, nêu không cẩn thận, con người cũng thể tự mình làm đứt tay, huống hồ bao nhiêu việc lớn lao khác thì cạm bẫy, chông gai sắc bén đến chừng nào! Dù cho con người có chuẩn bị để lưu tâm đến đâu cho việc ngăn chặn nhưng, chông gai, hầm hố, khổ lụy vẫn đến với con người một cách ngang nhiên như là một định luật. Người đời thường gọi: “Chạy trời không khỏi nắng” tức là chạy trốn ở đâu, khổ đau vẫn tìm đến, buộc con người phải đón nhận ôm vào lòng. Nó đến với con người ngay từ lúc được sanh ra và lớn lên khi đôi chân mới chập chững bước đi, đôi tay biết quờ quạng vào các vật tầm thường có góc cạnh làm cho chân tay đau đớn, rồi ré lên tiếng khóc thơ ngây. Đến khi đôi chân vững chắc, liền bôn ba tiến bước trên mọi nẻo đường đời để đi tìm sự ấm no, hạnh phúc cho cuộc sống, nên đôi chân liên tục giẫm lên nhiều loại bàn chông nhọn hoắc, bị sụp xuống, leo lên từ các hố thẳm trên lộ trình hành động. Do vậy, đạo Phật mới gọi đời là bể khổ mênh mông. Tuy nhiên, mỗi con người nhận lấy hạnh phúc, khổ đau nhiều hay ít, khác nhau do bởi biệt nghiệp quả của từng người. Nói về nghiệp, như cô đã hiểu, nên tôi chỉ nói sơ qua ở phạm vi quá khứ và hiện tại thôi. Tức là khổ đau hay hạnh phúc mà con người đang nhận lấy hôm nay do còn tồn tại từ quá khứ hay là do tâm thức con người vừa phát sinh ý muốn có quyết định hành động ngay thực tại, liền tức khắc tâm sai khiến thân tạo tác ra hành động. Với bậc Bồ Tát thường tạo tác nghiệp quả thiện ngay thực tại hơn là quá khứ, vì các bậc Bồ Tát làm hạnh nguyện giác tha vào đời phải thường quán sát và lắng nghe lời chúng sanh kêu gọi.

            Đã là Bồ Tát vào đời, mượn thân người để thành tựu các công đức hóa độ trước khi đạt Niết Bàn Phật quả, thân các bậc Bồ Tát đều phải giẫm lên các loại bàn chông bén nhọn, bị lọt vào các hố thẳm đầy gai góc, nhưng quý ngài vẫn tươi cười leo lên, tiến bước trên vận hành giác tha cho chúng sanh. Cho nên, trong bể khổ trần gian ô trược này, Bồ Tát hay phàm phu, đôi chân đều cũng bước lên bàn chân bén nhọn, cùng bị lọt vào hố sâu hôi hám nhưng, Bồ Tát thì tươi cười tiến bước vì đã tìm thấy Niết Bàn trong khổ đau, còn kẻ phàm phu thì rên la, khóc lóc, buồn thảm vì chỉ thấy khổ đau mà không tìm thấy Niết Bàn, hạnh phúc. Chính hạnh phúc có trong  khổ đau. Cũng như vậy, Niết Bàn không ly khai với sanh tử và khổ đau, Bồ Đề có trong phiền não.

Cô à! Với cô, cô sẽ nở nụ cười hay bực tức, nhăn nhó nét mặt khi bị đi vào chông gai trên đường đời đi tìm ấm no, hạnh phúc cho cuộc sống?

            Hà mỉm cười, nghiêng mặt qua Đạt:

            - Em hỏi ngược lại anh đấy?

            - Riêng tôi, nếu tôi không chịu đựng sự gian nan, khổ đau, chông gai, phiền não… trên bước đường học vấn ở đời cũng như việc tu niệm hành trì Phật pháp trước đây, thì giờ này sự nghiệp đời và đạo của tôi đâu như thế này. Nói như thế, không phải tự đắc, tự mãn mà sự thật trên bước đường công phu, tinh tấn rèn luyện bản thân và tư tưởng được có sự nghiệp văn hóa và đạo đức Phật giáo là phải dùng nhẫn nhục ba la mật đi dưới mưa phiền não, đi trong tám ngọn bão tố phong ba của đời. Tôi sẽ còn bước lên nhiều loại bàn chông bén nhọn nữa để mà đạt mục tiêu tối hậu là con đường giải thoát. Muốn giải thoát sanh tử luân hồi, người tu giáo pháp giải thoát đừng tránh né khổ đau, nên ôm lấy nó, nhìn thẳng vào nó và nô đùa với nó. Chính nó là lý tưởng của sự giải thoát, là Niết Bàn. Đi tìm Niết Bàn ngoài tâm, ngoài không gian chẳng khác nào đi tìm lông rùa, sừng thỏ, sẽ không bao giờ bắt gặp. Niết Bàn có ngay trong tâm, khi thân con người tiếp xúc và cảm nhận các khổ đau, gai góc, tai mắt nghe thấy các phiền não ùn ùn bay đến, nhưng tâm vẫn an nhiên, bình tĩnh tự tại,an trú trong niềm vui, không sợ hãi, vì tâm đã thấy rõ thân tướng mình và vạn hữu đang trên đường hoại diệt, trở về không. Niềm vui và tâm tự tại an nhiên áy, chính là trạng thái đi vào Niết Bàn. Thấy được Niết Bàn thực tại trước đã, rồi mới nói đến Niết Bàn ở mai sau. Vì Niết Bàn thực tại và tương lai không khác nhau, có cùng một thể tánh Chân Như. Chân Như là hiện hữu. Thực tại hiện hữu và Chân Như.

            Tôi đã trả lời về sự nghiệp đời và đạo của tôi được có hôm nay đều do chông gai, phiền não, khổ đau trợ giúp cho tôi thành công tiếp nối trên bước đương phục vụ đạo và đời ở các việc sắp tới. Bây giờ qua phiên cô trả lời. Thế nào, cô đã chuẩn bị chưa?

            - Em có cùng quan điểm với anh về hạnh phúc có trong khổ đau cũng như Niết Bàn không ly kha với sinh tử, tức là có trong sinh tử. Chính em, một thời đã qua và hiện nay, em đang ôm lấy nó vì nó đang hiện hữu trong lòng em thường trực như chiếc áo đang mặc. Từ chỗ đó, em đang dùng tâm thức làm dụng cụ gạn lọc chiếc áo cũ phiền não ra một bên, mặc vào chiếc áo an lạc có nhãn hiệu hạnh phúc cho hợp với thời trang đổi mới, nếu không nói là loại trừ phiền não ra khỏi tâm thức trên hành trình tu niệm. Vì vậy, em đâu còn sợ phiền não, khổ đau nữa! Tuy nhiên, hễ còn tâm phàm phu là còn khổ đau và phiền não. Chúng cũng theo thời trang mà thay hình, đổi sắc khi tâm con người chạy theo lối sống văn minh của xã hội, thì khổ đau và phiền não cũng theo đó giày vò, đánh phá, gây rối tâm thức con người một cách sắc bén tinh vi. Em biết trước trong những ngày tháng sắp tới, phiền não và khổ đau sẽ đến với em rất nhiều. Đến như cơn lốc, như cơn mưa rào từ phía đông ào đến. Nhưng thời nào, em cũng có cách gạn lọc. Nếu em không đủ nghị lực để hàng phục phiền não và khổ đau, bị chúng giày vò, khuynh đảo tâm thức, tức là em không chiến thắng được chúng, em sẽ đầu hàng chúng. Điều đó, theo em nghĩ, nó cũng là một chơn lý, vì muốn đạt sự giải thoát trong vô lượng kiếp sau, kiếp này nên tuần tự đầu hàng phiền não và khổ đau, nguyện sống chung với chúng, xem chúng như những người tình không chân dung. Biết đâu nhờ những người tình phiền não đó mà em sẽ đạt được chơn lý. Chính đức Phật trước khi thành đạo, trong vô lượng thời gian ở quá khứ, ngài đã bị phiền não và ma vương quấy phá, ngài vẫn an nhiên, tuần tự tìm cách chiến đấu, cuối cùng ngài chiến thắng. Và hơn nữa khuất phục trước phiền não và khổ đau chính là hạnh nguyện của Bồ Tát vào đời làm việc giác tha. Vậy, em xin dâng hiến kiếp này cho phiền não và khổ đau vì mục đích lý tưởng giải thoát, nên em dùng kiếp này làm nhân tố bắt đầu của cuộc hành trình làm hạnh nguyện Bồ Tát dâng hiến vật chất và tinh thần, cũng như hy sinh năng lực và kể cả thân xác cho những chúng sanh đang đói khổ và thiếu thốn. Ngoài việc bố thí tài vật ra, người Bồ Tát còn bỏ năng lực và thời gian để trợ duyên cho những ai đã và đang làm hạnh nguyện khai sáng trí tuệ cho con người. Em sẽ phát nguyện hành động trợ duyên đó.

            Sau những lời trình bày đồng quan điểm với Đạt về hạnh phúc có trong hố thẳm của trường đời, Hà nín thinh, đứng im. Có lẽ, nội dung đã tạm đủ ý nghĩa, Hà xem đồng hồ trên tay, vén hết mái tóc về một phía bên phải trước ngực, làm để lộ vành tai và nửa phần cổ bên trái có làn da trắng ngà sau những sợi tóc mai so le đong đưa, rung rinh theo nhịp thở của da thịt ở hai bên gáy. Hà nhìn mái tóc đang nằm trên nửa phần ngực no tròn của mình, đưa tay vuốt từng cụm tóc. Rồi nàng vén vạt áo sau ra trước, ngồi xuống trước bụi hồng. Nàng nhặt từng cánh hồng trên đất, nắm vào tay, mân mê, bỏ xuống. Duy chỉ còn một cánh hồng mới rụng là được nàng giữ lại vì nó còn nồng nàn hương vị. Nàng đứng lên, mâm mê nó ở mười đầu ngón tay nhỏ nhắn cùng với đôi mắt có lông mi cong, đen, dài đang nhìn đăm chiêu xuống cánh hồng. Nàng nhìn cánh hồng trên tay mà tựa hồ như nàng đang nhìn xuống sống mũi cao, dọc dừa của nàng, trông như lúc thiền sinh đang thiền tọa đếm hơi thở. Trạng thái của nàng không phải là hành thiền, mà là mắt đối cảnh mà lòng suy tư, vì đôi môi hồng của nàng đang mím chặt và hơi xê dịch qua một phía, làm cho nét mặt của nàng trở nên dễ thương như lúc giận hờn.

            Trong ánh nắng trưa mùa đông, thân thể nàng hiện rõ những đường nét uốn khúc và óng ả trong chiếc áo dài màu lúa và quần dài vải sa tanh trắng phau làm cho tấm thân cao một mét năm tám của nàng vốn duyên dáng càng thêm duyên dáng lúc đi và lúc đứng.

            Có lẽ không còn gì để nói, Đạt cũng đứng im, đang vo tròn chiếc lá hồng trong tay mà đôi mắt nhìn vô tư về phía trước. Cả hai người không nó điều gì nhưng, tâm thức của mỗi người đang nói thầm. Và một trong hai người sẽ nói ra thành lời ở đoạn cuối tại khu vườn trước khi tạm biệt hoa, lá, cỏ, cây. Đích thực, Hà mở lời hẹn ước:

            - Như vậy, thứ bảy tuần tới, tới nữa và tới nữa, anh có định đi đâu không?

            Đạt vất chiếc lá nhàu nát xuống trước mặt, nheo mắt, ngước lên, miệng cười mím, xoay qua Hà:

            - Thứ bảy tới, tới nữa và tới nữa, vị chi là ba lần tới, tức là ba tuần lễ, nhằm đầu tháng mười một ta. Đến đó thì sao?

            - Vì đầu tháng tới, em sẽ đi Phong Lan lấy hàng bán Tết. Luôn tiện một công hai việc, em ghé thăm anh, em sẽ nói chuyện này cho anh nghe.

            - Chuyện này là chuyện gì, lành hay dữ, nói sơ chút chút nghe thử coi?

            - Thôi, em không nói đâu, để đến đó rồi nói.

            - Nói sơ cho anh nghe thử đi! Cô không nói, tối nay tôi khó ngủ lắm đấy!

            - Em biết anh dễ ngủ lắm, thành ra em không nó bây giờ.

            - Nài nỉ cô cho vui vậy thôi, chứ cô chưa nói tôi cũng đã biết trước cô sẽ nói chuyện gì rồi!

            - Bây giờ em nói khích anh, anh nói thử xem có đúng không nào?

            - Ờ nha, nhưng mà lại đây, tôi sẽ nói nhỏ vào tai cô, nói nhỏ thôi, nói lớn sợ cỏ, cây, hoa, lá chúng nghe, chúng cười mình.

            Hà liền đến đứng gần sát bên Đạt, tự động bốn mắt nhìn nhau khi giáp mặt nhưng, Đạt không ghé miệng vào tai Hà, Đạt chỉ nói vừa đủ để Hà nghe. Sau đó Hà mở tròn đôi mắt và nở nụ cười trên môi, đôi má nàng bỗng dưng ửng hồng, nàng nói:

            - Sao anh hay quá vậy, anh biết trước hết trơn! Em biết anh biết trước, em không thèm nói đâu!

            - Chuyện đó là chuyện nhỏ, chuyện của phàm phu, nói trước nói sau gì cũng thế thôi. Tôi nói cho cô nghe, cô nói cho tôi nghe cũng giống như một tăng thân này đứng trước tăng thân khác trong ngày Bồ Tát để nói lên sự lỗi lầm của mình vừa qua. Nhưng trạng thái chứa đựng âm thanh thì thầm giữa tôi và cô vừa rồi và có thể sẽ được tiếp nối ở mai sau không phải là lời sám hối, ăn năn, hứa hẹn xin từ bỏ việc ác. Mà là lời hẹn ước, đồng tình, liên kết hạnh nguyện lợi tha trên cơ sở Bồ Tát hạnh hòa nhập, nếu không nói là tinh thần “Bất nhị”, tức là không có hai, chỉ có một. Vì vậy tinh thần bất nhị chỉ có tâm phát nguyện, chứ không có lời cam kết như kẻ tội phạm cam kết trước quan tòa, như lời hứa của đệ tử trước thầy… Lời hứa ấy thường có hai mặt; có thể và không có thể, do vậy có khi từ bỏ, có khi tái phạm, có khi thực hiện được, có khi không, ưa lừa dối hơn là thực lòng. Còn lời phát nguyện là lời đơn phương ở mỗi con người được phát sinh từ tâm thức, nó giống nhau như hai giọt nước, mặc dù không ai bảo ai, mỗi người ở một phương trời, nên nó là một chơn ngôn. Đã là chơn ngôn, không có hai, chỉ có một. Từ đó hạnh nguyện lợi tha  của mọi người đều giống nhau ở thể tánh hòa hợp bình đẳng với con người và vạn hữu. Vì vậy, không ai bảo ai, tự động có hành động lợi tha làm việc thiện cho chúng sanh, rồi cùng gặp nhau ở một điểm hòa nhập trên vận hành hóa độ chúng sanh bằng giáo pháp và vật chất, gọi là tư tưởng lớn gặp nhau. Sự hòa nhập tự mình hay cùng người đều từ con đường tục đế sau mới đến chơn đế. Cả hai đế này không phải được hoàn thành ở một kiếp mà là trong vô lượng kiếp. Do vậy, riêng ở hành động thực hành tục đế có chứa đựng tình đời, nó là cơ bản để tiến lên hành động tình đạo. Chính đây là Bồ Tát hạnh giao duyên hòa nhập giữa hai, ba, bốn… con người mà một tâm niệm. Khi tình đạo được đi vào chơn đế hay gọi là tâm bình đẳng, chơn như, trí tuệ bát nhã… Từ đó mọi ý niệm tình đời có bản chất ích kỷ không còn tồn tại, đã bị tiêu diệt, bị đánh bật ra khỏi tâm thức, mặc dù cùng nhau hay đơn phương hành tục đế nhưng, thân tâm đã được ngồi vào chiếc xe “nhứt thừa”. Nói khác hơn, sự bố thí, cúng dường, hành động độ tha ở lãnh vực giáo pháp và tài vật ở vào ba cái không (Tam luân không tịch). Đó là không thấy mình bố thí, không thấy người nhận và không thấy giáo pháp và tài vật để thí. Không thấy ba lãnh vực đó, chính là tự mình mở ra ba cánh cửa giải thoát: không, vô tướng và vô tác. Do vậy, từ tình đời đi đến tình đạo, túc đế đến chơn đế, từ hữu lậu đến vô lậu, phước đức hữu lậu biến thành công đức vô lậu. Tất cả được khởi điểm từ tình đời: đối đãi thật thà, tin nhau, thương nhau chơn tình, yêu nhau chung thủy, giúp nhau lúc đói rét được gọi là một miếng khi đói bằng một gói khi no… Có nghĩa la trước khi tiến lên bậc thánh, con người phàm phu phải thực hành đúng phẩm chất nhân bản, làm đúng hành động nhân đạo.

            Nói xong, Đạt xoay người, nhìn Hà, rồi bước đi không lời, như thể hàm ý bảo nàng cùng đi ra khỏi khu vườn với mình. Hà liền bước theo đội hình hàng ngang. Trên đường hướng về nhà bếp, Hà nhã ý yêu cầu Đạt:

            - Vừa rồi anh có nói Bồ Tát hạnh hòa nhập trong tinh thần bất nhị, vậy anh nói cho em nghe thêm về tinh thần bất nhị, vì em chưa có rõ lắm.

            - Tinh thần bất nhị hả?… Để khi khác đi nhé, bây giờ cũng đã trưa rồi, không đủ giờ để nói.

            - Anh hứa, anh nhớ giữ lời nhá, không được xù đâu đó!

            - Chuyện gì, chứ chuyện đó thì easy thôi, đừng lo!

Vừa bước vào cửa, đúng lúc bà Lộc đặt xong tô canh trên bàn, bà nhìn Hà và Đạt đi vào, Đạt liền nói:

            - Thưa mẹ, Hà vào chào mẹ để về.

Bà Lộc đưa cánh tay lên trán, quẹt qua một cái, rồi nhìn Hà, tươi cười:

            - Cháu ở lại dùng với bác một bữa cơm chay đạm bạc cho vui để thắm tình đạo vị với nhau. Giờ này cũng đã gần quá ngọ, về nhà lở cở, ở lại đi cháu, ăn xong, ở chơi, nhởn nha đến xế rồi về.

            - Dạ, cho cháu xin. Để lần sau, cháu đến cháu sẽ ăn. Chừng ấy, cháu ăn như  lúa đổ bồ cho bác thấy.

            - Bác mời thật lòng đấy nhé.

            - Vâng, cháu biết mà!

            Hà quay qua Đạt, đôi mắt đen của nàng nhìn sâu vào mắt Đạt một cách thân ái và trìu mến, như để gởi lại cho Đạt niềm lưu luyến, làm cho Đạt phải nhìn qua chỗ khác, rồi Hà nói khe khẻ:

            - Em về nghe! Đầu tháng em sẽ đến.

            - Về thật à?

            - Xin cảm ơn anh, vì em còn bận đi lấy hàng và chở về nhà nữa!

            - Ừa! Chúc cô thượng lộ bình an. Lần sau đến, nhớ đem bao, bị để đựng hạnh nguyện hòa nhập của tinh thần Bất Nhị. Trong hạnh nguyện hòa nhập đó có phiền não và khổ đau, nhiều lắm đấy nhé.

-Phiền não và khổ đau anh trao, trong đó có Bồ Đề, em đâu có ngán!

Đạt hộ tống Hà ra xe và tận ngoài đường nên chi Hà vừa sập chân chống xuống, quay đầu xe, Đạt liền nhã ý:

-Giắt nổi không, để tớ giắt hộ cho!

-Nổi chứ! Thân em lúc này có nhiều power lắm, anh đừng lo.

Ra đến cổng, Đạt mở cửa, đứng bên cho Hà giắt xe ra, Đạt đi theo Hà ra đến tận con đường đất đỏ để tiễn đưa nàng ra về. Đạt đứng khoanh tay bên Hà khi Hà ngồi lên yên xe, chỉnh lại cách ngồi, rồi nổ máy. Trong tư thế chuẩn bị cho xe lăn bánh, Hà nhìn Đạt, mỉm cười:

- Anh vào đi! Em về nghe, bai anh!

 

 

 

CHƯƠNG SÁU

 

T

ình là một thực chất nguyên lý sống, nó luôn có mặt và tồn tại trong xác thân con người, thuộc hệ của ý thức, là động cơ phát sinh ra nguồn năng lượng an vui, hạnh phúc và khổ đau giữa người vời người ban thưởng cho nhau. Đó là tình người, một đạo lý nhân bản chuyên chính hữu ngã.

Nhân bản, một thuộc tính tự nhiên, nên con người được sanh ra và khi khôn lớn tự biết sắp xếp tình của mình vào  vị thế hành sử theo từng giai cấp trên, dưới, trong, ngoài gia đình và xã hội để tôn xưng, ban cho, nhận lấy tình thương, hạnh phúc, an vui... có chứa đựng luân lý, đạo đức.

Về bản chất hữu tình, con người là loài hữu tình chúng sanh có tri giác vô hạn, nên biết sử dụng tình yêu trong quan hệ tư tưởng giữa đồng loại để cho ra tình và lấy về tình bằng lý trí, không phải bằng bản năng như loại vật. Lý trí do nhân bản mà có, nhưng vẫn có người đánh mất nhân bản khi sử dụng tình với đồng loại nam hay nữ vượt qua khỏi lằn mức luân lý, đạo đức nhân bản vốn có của mình, giai do bản chất chuyên chính hữu ngã bị nhiều vô minh, dục vọng bao phủ, làm che  khuất lý trí, làm cho bản ngã bị tăng trọng lực về nghiệp ác. Trong khi đó cũng trong cõi trần này, có những con người sử dụng tình trên hành trình đi tìm an vui và hạnh phúc về mặt vật chất lẫn tinh thần cho đời sống là biết dùng giáo pháp Phật làm chất liệu để duy trì luân lý nhân bản, giữa bản ngã, tẩy trừ vô minh dục vọng của mình. Nên tình, niềm vui và hạnh phúc của họ ban cho mọi người và được nhận về từ mọi người là chân thật, có trí tuệ, có từ bi được gọi là tình yêu xuất thế gian trí.

Cho nên, tâm tánh thế nào, tình được hiển lộ ra ngoại vi thân miệng như thế ấy, tức là tâm con người có chứa đựng từ bi và trí tuệ, hành động và lời nói có đạo đức, văn hóa trong cư xử với đồng loại. Đó là tình có bản chất thánh thiện. Hay nói khác hơn, một hữu tình chúng sanh có trí giác, trên vận hành tìm sự sống, sử dụng tình với mọi người đúng với đạo lý làm người. Chưa nói đến tâm bình đẳng của họ vì mọi người làm hạnh nguyện trợ duyên giáo pháp để giác tha cho những kẻ đang bị đi vào con đường vô minh là đằng khác nữa. Ngược lại, tâm con người bị dục vọng làm che khuất lý trí, nên lời nói và hành động có trạng thái bôn ba, rộn ràng và âm thanh dục tính, sống động, vô luân lý. Đó là tình của bậc hạ cấp dưới phàm phu.

Tình của Đạt và Hà đang ở đỉnh cao của thánh thiện, vì hai người đang trao tình cho nhau bằng những đôi chân rảo bước nhìn hoa trong vườn, nhặt cánh hoa rụng, hái chiếc lá tươi mân mê trong lòng bàn tay, trạng thái nhìn nhau e ấp trữ tình, bản thân của mỗi người an trú ở vị trí nam nữ thọ thọ bất thân, cách xa nhau trong thước tấc. Nói ra cho nhau nghe văn thơ, đạo lý tình đời, giáo pháp Phật có chứa đựng hạnh nguyện giác tha của các bậc Bồ Tát đi vào đời. Cho nên, Đạt vừa đề cập đến tinh thần Bất Nhị, liền sau đó, Hà yêu cầu Đạt giảng lại, vì nàng chưa hiểu rõ.

Ý thức ước muốn tiếp thu giáo pháp Phật vào lòng của Hà, lời nói về giáp pháp của Đạt, chính là chủng tử Bồ đề được huân tập từ trong vô lượng kiếp về trước, gọi là căn lành, là quả báo thiện nghiệp, chủng tử thiện. Nó là nhân ở quá khứ là duyên gặp gỡ ở hiện tại của cá nhân này với cá nhân khác mà vị trí của sự bắt gặp nhân duyên là đạo tràng vượt thoát ý niệm về ngã ở tâm thức con người có chứa đựng lòng từ bi và trí tuệ thật, chứ không phải ở tại các chùa như người ta thường gọi chùa là đạo tràng. Cho nên ý niệm vô ngã là đạo tràng thanh tịnh có trong tâm thức của con người có xuất thế gian trí. Tình duyên đẹp gặp lại nhau trong hiện tại nếu không nói là sự thề nguyền hẹn ước của những cặp tình đạo ở kiếp trước đã trao cho nhau những đóa hoa tình: một thứ hoa trí tuệ được kết tinh bằng chất liệu giáo pháp vô ngã của đạo Phật, và một đóa hoa tình đời được kết tinh bằng đạo lý nhân bản. Vì vậy gặp nhau trong hiện tại, dù có trao cho nhau một đóa hoa tình thực thể có hình tướng nằm trong sự chi phối của định luật vô thường sanh diệt như đóa hoa trong vườn, như bản thân người có con tim biết rung động, nhưng sự rung động có kim chỉ nam hướng dẫn đi vào vườn hoa tình có ánh sáng. Từ đó con người gặp nhau ai cũng thấy trước mặt: yêu có đạo lý là tình yêu đẹp nhất trên đời. Nó là nguồn hạnh phúc tuyệt vời, vì trong đó có đạo đức Phật giáo và đạo đức nhân bản tạo nên lòng chung thủy, gắn bó, hy sinh thời gian, sức lực cho nhau. Nên dù có lúc cùng nhau giẫm lên chông gai trên đường đời mà vẫn cùng nhau tươi cười chịu đựng. Nếu không nói là tình yêu có chứa đựng pháp nhẫn nhục Ba-la-mật. Ở đời thường trao cho nhau chiếc nhẫn để biểu tượng cho đức tánh nhẫn nại, chịu đựng với nhau dù có gặp gian khổ vẫn một lòng chung thủy. Nhưng chiếc nhẫn không đủ sức cầm chân của kẻ bội tình. Chỉ có tâm thức có chứa đựng đạo lý nhân bản và lòng từ bi và trí tuệ của Phật giáo mới không có sự bội tình ra đi.

Trên đời này, có bao giờ tình không đẹp mà có sự thề nguyền hẹn ước gặp nhau nữa đâu! Vì vậy mới có câu: “tình không vui khi đã vẹn câu thề”. Sự thật, nội dung của câu thơ không phải là thề, chỉ là lời hẹn hò gặp nhau khi đôi bên chưa thỏa mãn dục tình của thể xác, nên hậm hực mong chờ gặp gỡ và lầm tưởng nhau ai cũng có đạo lý nhân bản chung thủy. Do đó khi chung đụng nhau, cả hai đều vỡ lẽ, đưa đến đổ vỡ, phản bội và hận thù do một trong hai hay cả hai không chứa đựng nhân bản tính và lòng từ bi và trí tuệ trong nội thức.

Chỉ có tình đạo mới có sự thề nguyền hẹn ước gặp lại nhau. Ngoài ra, sự gặp gỡ nào đó là nhằm vào định luật nhân quả, trả vay, nợ nần, đều không được gọi là tình đạo. Và, kể cả trên lãnh vực người có đạo Phật, đạo Chúa, khi giao tiếp hội ngộ với người mà tâm thức không có chứa đựng tình người, (đạo lý nhân bản) cũng không thể gọi là tình đạo, vì tình người chwua có, làm sao có tình đạo!

Sự thề nguyền hẹn ước gặp nhau trên hai lãnh vực: tái sanh theo ý muốn vào làm thân người của các bậc Bồ Tát do ý nguyện giác tha chúng sinh. Thứ đến là sự phát nguyện hộ giúp nhau trên bước đường tu tập và phụng sự đạo pháp ở kiếp trước hay trong kiếp này còn dở dang chính là động lực đưa đẩy được gặp nhau lại ở kiếp sau để hoàn thành. Hai tư tưởng đó được gọi là tình đạo hay là tình ở đỉnh cao thánh thiện.

Hai hạng người trở lại trần gian vào kiếp sau hay trong hiện tại này đều gọi là Bồ Tát. Trở lại một mình, hai người cùng hẹn ước trở lại, hay ba, bốn người trở lên. Tất cả hạng người trở lại trần gian như thế đều vì sự lợi ích giác ngộ cho chúng sanh được đặt hàng đầu. Sau đó mới đến mặt vật chất bố thí cúng dường tài vật, của cải, sức lực. Cho nên, tình đạo còn được gọi là “tình thiện hữu tri thức” biết thương yêu nhau, có cùng một ý chí như nhau trên bước đường giúp đỡ chúng sanh về mặt đời và đạo giải thoát của Phật giáo.

Hà và Đạt là hạng người ở lãnh vực thứ hai, lãnh vực hẹn ước cùng nhau dắt dẫn mình và người trên hành trình tu học và phụng trì Tam Bảo ngay thực tại và sẽ ở kiếp sau.

Sự ước hẹn nào cũng từ đáy lòng được nói ra thành lời êm đềm trước đối tượng hay tâm thức đơn côi được hiển lộ ra trạng thái yên lặng ở thân. Nhưng kỳ thực bên trong, tâm thức vẫn hằng chuyển mình nghe lấy, gọi là tiếng nói bên trong (tư duy).

Nói ra hay không nói ra, hễ tâm sanh khởi ý niệm về điều gì đó, thiện hay ác, nó liền trở thành định nghiệp. Định nghiệp do tâm thức vừa sanh khởi vừa ghi tạc (record) vào tạng thức. Một khi đã trở thành định nghiệp, chạy đâu cho khỏi nghiệp. Dù thiện hay ác, nó nằm im và sẽ đến với con người. “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”, nói như Nguyễn Du.

Hà đã tự tạo cho mình một định nghiệp thiện bằng sự hẹn ước tình đạo có lời nói êm đềm trước mặt Đạt và âm thầm trong lòng, tự mình nghe lấy. Lời hẹn ước tình đạo của nàng chứa đựng tòan là hạnh nguyện trợ duyên cho Đạt và cho những ai đang và sẽ làm hạnh nguyện giác tha. Lời hẹn ước tình đạo của Hà là một chơn ngôn chắc thực có năng lực đưa tâm thức nàng đi lên đỉnh cao của Bồ Tát tại gia, một vị trí của bước chân đầu tiên bước vào ngưỡng cửa tòa nhà Bát Nhã. Mà như thế do hai thứ tình đạo và đời hổ tương cho nhau tạo nên sức mạnh tinh thần ở giai cấp phàm phu trước đã, sau mới tiến lên bậc thánh.

Tất cả chư Phật, Bồ Tát và bốn quả vị Thánh trước khi đạt đạo Bồ Đề đều làm thân người có hai thứ tình đạo, đời trong lòng làm động cơ tiến bước vào con đường giác ngộ.

Chính tiền thân đức Thích Ca Mâu Ni khi làm thân người, lúc bị đọa vào địa ngục, thấy bạn mình bị quỷ sứ hành hạ đánh đập vì ốm yếu không vác lên nổi thùng phân. Ngài liền sanh lòng thương xót, nhảy vào đưa tay giúp sức khiêng thùng phân với bạn. Sau đó ngài liền được thoát khỏi cảnh địa ngục, được tái sinh vào loài người. Đó là tình đạo đầu tiên của ngài đưa đôi chân ngài đi vào tòa nhà Bát Nhã một cách liên tục trong vô lượng kiếp làm người. Cuối cùng ngài đã vĩnh viễn bước vào ngôi nhà Niết Bàn. Mà như thế, trong kiếp làm người cư sĩ tại gia, kiếp nào ngài cũng tự phát hạnh nguyện hay cùng với bạn hữu trí thức có tình đạo thâm sâu, tiến hành thực hiện hạnh nguyện giác tha cho mọi người trên hành trình thực tập giáo pháp giải thoát. Trong những thiện hữu tri thức đồng sự với ngài, có người là phái nữ đã từng làm vợ ngài trong nhiều kiếp để trợ duyên cho ngài hoàn thành kế hoạch hóa độ chúng sanh bằng giáo pháp và cả của cải vật chất.

Hạnh nguyện Bồ Tát được hiển lộ trong tâm thức của người cư sĩ Nam Nữ khi tâm thức người ấy sẵn có Bồ Đề tâm liền được rõ ngộ chơn lý do qua một thời nghe pháp hay đọc một cuốn sách Phật pháp.

Hà là người, tâm Bồ Đề sẵn có và được Đạt bồi thêm giáo pháp làm cho tâm Bồ Đề của nàng phát triển và nở hoa trí tuệ. Một loài hoa phát ra bốn mùi hương: giới hương, định hương, huệ hương, tri kiến giải thoát hương. Tri kiến là mùi hương của hạnh nguyện do ba mùi hương: giới, định và huệ thúc giục tâm thức sanh khởi ý niệm vì lợi ích giác tha cho chúng sanh khi con người học Phật đã phá trừ được kiến chấp. Do vậy, người cư sĩ làm hạnh nguyện giác tha là người đã có tri kiến, tức là tâm thức đã thấy biết mới làm được, chứ người tâm thức chưa có tri kiến khó mà làm được!

Hà đã có tri kiến trong lòng, nên nàng đã nói lời phát hạnh nguyện trước mặt Đạt: “Em nguyện làm người đồng hành Bồ Tát Đạo với anh ngay từ kiếp này và mãi mãi trong vô lượng kiếp sau, cho đến khi nào anh thành một vị Phật thì mới thôi.”

Sau giờ phút tạm biệt Đạt, Hà cảm thấy tâm tư mình nhẹ bổng, phơi phới, bay bổng lên cao, niềm an lạc dâng trào, tràn ngập cả tâm hồn, làm cho những trạng thái cổ hũ, xa xưa như đứng đưa mắt nhìn mây trời, thấy gió lung lay hàng cây trước ngõ, cất tiếng hát trong nhịp bước khi đôi tay làm việc mà tâm thức loài vọng, mơ màng... Những trạng thái ấy như đã bị chìm lặn, hòa tan, biến thể theo với niềm an lạc lớn lao đang hiện hữu, phơi bày một cách hiện thực trên tấm thân kiều diễm, tươi đẹp của nàng, ở đôi mắt mở tung, ở đôi môi chúm chím như đóa hoa hồng nở búp, ở đôi gót nhẹ vững chắc giẫm lên mặt đất tịnh trong từng bước đi.

Thân tâm nàng từ trạng thái động được chuyển sang trạng thái nghiêm thanh tịnh do niềm an lạc ở tâm thức tạo nên. Niềm an lạc không hiện ra trạng thái hớn hở bên ngoài như niềm sung sướng của những người thân gặp lại nhau sau những năm, tháng xa cách, không như niềm hân hoan của kẻ bạo lực không đánh mà thắng, không như niềm vui mừng của kẻ bạo quyền sau những lần tước đoạt tài sản của người dân cô thế, không như niềm vui của kẻ cướp được của... Tất cả niềm vui ấy không chân thật, vì sau đó tâm con người sẽ bất an. Niềm an lạc không có ở các lãnh vực phi pháp, phi đạo lý đó. Niềm an lạc được bừng dậy trong tâm thức sau khi con người nhận thức rõ giáo pháp vô thường sanh diệt, thấy được tánh không của vũ trụ vạn hữu, tức thì tự mình gạt bỏ hết phiền não ra ngoài tâm thức, không còn tham danh, chức tước, không còn chấp lấy bản ngã... Sống đời an nhiên tự tại, không còn sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Nhưng niềm an lạc ở cấp độ phàm phu của một con người vừa mới tỏ ngộ giáo pháp giải thoát của đạo Phật (hữu tình giác) liền sanh khởi ý niệm phát tâm Bồ Đề làm hạnh nguyện lợi tha cho chúng sanh về mặt vật chất và giáo pháp giác tha. Nên sau khi phát hạnh nguyện, người ta cảm thấy niềm an lạc bừng dậy trong lòng. Chính đây là thời điểm của Bồ Tát hạnh đang thực hành giáo pháp ở cấp Tục đế, vì còn thấy mình có niềm an lạc trong lòng.

Hà là kẻ phàm phu chính hiệu, niềm an lạc của nàng nằm ở góc độ hạnh nguyện lợi tha và giác tha cho chúng sanh. Nên trong những ngày tạm biệt xa cách Đạt, tâm thức nàng cứ bay bổng, vươn lên niềm an lạc khi nó tự kiến tạo nên những mô hình trong nội thức, gọi là pháp vô tướng, còn gọi là mộng ước mai sau; nào là sẽ đi cùng với Đạt lên chùa dâng hoa, lễ Phật, rồi rảo bước trong vườn chùa, nói chuyện với nhau về Phật giáo sử qua các triều đại xưa và nay, cùng với nhau đem tài vật bố thí cho kẻ nghèo, cúng dường Tam Bảo, sẽ giúp Đạt trong công tác sinh hoạt giáo vụ của hội cư sĩ Phật giáo, theo Đạt tham dự các buổi tu học hành thiền do các Tăng bảo tổ chức ở bất cứ nơi đâu, sẽ cộng tác với Đạt làm việc bố thí pháp bằng cách in kinh sách... Đó là những pháp vô vi tướng, nhưng chúng sẽ thành hiện thực pháp hữu vi tướng, vì tất cả pháp có hình tướng hôm nay đều do pháp vô tướng làm nhân mà tâm thức con người đã cấu tạo trước trong tâm.

Những mô hình giáo vụ vô tướng ấy cứ liên tục quay cuồng trong tâm thức nàng. Chúng không làm cho nét mặt nàng có sắc thái trầm lặng, ngược lại nét mặt nàng vui tươi, nhưng nghiêm nghị trong đi, đứng và làm việc.

Sau những đợt cấu tạo các mô hình của mộng ước mai sau, Hà nghe tâm hồn nó nói nho nhỏ: “Anh Đạt, em yêu anh! Em sẽ nguyện làm vợ anh trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau. Dù cho trong kiếp làm người của anh ở bất cứ giai cấp nào, nghèo khó, giàu sang, thứ dân hay đế vương trong xã hội, em vẫn là vợ của anh để trợ duyên với anh trên bước đường thực hành hạnh nguyện Bồ Tát cứu đời, giác ngộ cho con người, cho đến khi nào anh thành một vị Phật, là em mới thôi”.

Hà là một con người phàm tục, có xác thân do năm uẩn tạo nên (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và bốn thứ lớn (đất, nước, gió, lửa) hợp duyên thành thân, nên ngoài tình đạo ra, nàng có tình đời ngự trị trong lòng đã làm cho con tim nàng rung động, rồi phát ra lời yêu đương nồng nàn, nhưng sự rung động có đạo lý nhân bản và có giáo pháp Phật hướng dẩn con tim nàng quay vào con đường tình chơn chính.

Chính Hà đang đưa tâm nàng vào con đường tình chơn chính ở góc độ chỉ có xây mộng hạnh nguyện Bồ Tát. Nàng không có xây mộng được giàu sang phú quý, được danh vọng chức tước. Nàng đâu có ước mơ tay trong tay nhảy dưới ánh đèn màu theo các điệu nhạc chậm, mau ở phòng trà. Nàng cũng không mơ ước cùng Đạt ngồi trong góc tối ở rạp chiếu phim, hay lê la nơi quán cà phê... Trạng thái im lặng như chánh pháp của nàng qua hai tuần lễ sau khi đi Phong Lan và ghé thăm Đạt đã làm cho ông bà Thông, cha mẹ nàng thắc mắc: vì cớ sao lúc này nét mặt nàng vui tươi, nhưng lại ít nói và không còn ca hát... Phải chăng đó là trạng thái có người yêu! Do vậy, một hôm, vào buổi sáng tinh mơ, bà Thông đang nấu nước pha trà để cho ông Thông uống sau một thời tụng kinh buổi sáng. Nước sôi chưa đổ vào bình, mà ông Thông đã từ nhà trên xuống, ngồi vào đầu bàn, hai chân chéo lên nhau, hai tay gác lên bàn, rồi bốn đầu ngón tay phải của ông gõ nhịp lên bàn, con bàn tay trái đập lên cánh tay phải của ông theo một điệu âm nhạc Phật giáo “Tán Xấp” bài Lư Hương cùng với âm thanh nho nhỏ nơi môi ông. Sau một vài phút, ông ngưng gõ nhịp để chờ bà Thông đem bình trà qua. Ông Thông nhìn bà Thông, nói vói qua:

- Mẹ nó ơi! Lúc này con Hà sao ít nói và có vẻ nghiêm, không nghe nó ca hát gì cả! Hay là nó đang tư duy thương thầm đứa trai nào, mẹ mày có biết không?

- Tui nghe con Minh nó mách với tôi là con Hà đang thương thằng Đạt, con bà Phát Lộc ở làng Mía đó, ông!

- Úi chao! Nếu được như vậy, phước cho gia đình mình biết mấy! Vì gia đình ông bà ấy thuộc về gia đình tu hành. Nghe đâu thằng Đạt, ngoài giỏi văn hóa ra, còn hiểu giáo pháp Phật giáo rất thâm sâu. Đúng là con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Hiện giờ ông Lộc đã về tu tại chùa Sơn Khê bên làng Dạ Thảo.

Bà Thông đặt bình trà nóng lên bàn, bà quay lưng:

- Hứ! Ông nói như thế vô tình ông chê gia đình mình không có tu à? Mặc dù tôi và con Hà ít đi chùa, nhưng nó đã đọc nhiều sách Phật, bao nhiêu sách trong tủ nó đã đọc hết, vừa rồi tôi thấy nó mượn ở đâu về mấy cuốn sách Trường A Hàm, Trung A Hàm và Tạp A Hàm. Sách đóng bìa cứng màu nâu được bỏ vào trong một vỏ cứng. Không những đọc ở nhà mà còn đọc ngay cả ở sạp bán hàng lúc không có khách nữa cơ. Còn tôi biết ăn chay và niệm Phật trong tâm mỗi lần rãnh đâu niệm đó. Cho nên đi chùa nhiều chưa chắc gì đã hiểu đạo. Nói đó là nói về một số người đi chùa mà tâm không có tình đạo, còn ưa có tâm phân biệt người nghèo kẻ giàu, trái với giáo pháp bình đẳng của đạo Phật. Chứ con đa số đều hiểu giáo pháp cả. Đấy là phần hai mẹ con tôi. Còn ba cha con ông thường đi chùa, ông đang sinh hoạt với hội cư sĩ trên vấn đề tu học, còn thằng Khánh và con Minh là đoàn viên của GĐPT cũng đã đang học giáo lý. Vậy mà ông không có lời khen các con nó, nhất là con Hà. Nếu mà được khẩu vấn Phật pháp với ai đó, nó sẽ không thua ai đâu nhé. Hay là thấy thằng Đạt làm đến chức Phó Quận Trưởng hành chánh, nên ông sanh tâm khen nó? Thôi, âu cũng là nghiệp duyên ông à! Quả thật hai đứa nó thương nhau, được thành vợ thành chồng là đúng với duyên Bồ Đề gặp Bồ Đề, thiện duyên gặp thiện duyên, không sai. Như đời thường có câu: “Nồi nào vung nấy, vung tròn úp nồi tròn, vung méo úp nồi méo, trâu tầm trâu, mà tầm mã”, xứng đôi với nhau. Cho nên những nam nữ huynh trưởng trong GĐPT kết hôn với nhau là đúng với nhân duyên tình đạo hay không phải là huynh trưởng cũng là thuộc gia đình theo đạo Phật có tu học, có trí tuệ, có đạo đức Phật giáo biết lái con em mình gặp duyên tình đạo trong hôn nhân để duy trì truyền thống của cha mẹ. Tuy nhiên cũng có một số gia đình theo đạo Phật mà con cái của họ lại lấy chồng lấy vợ ngoại đạo, bỏ đạo Phật theo đạo vợ, theo đạo chồng mà cha mẹ vẫn đồng tình chấp nhận. Những gia đình như thế, chính bản thân cha mẹ và con cái họ không phải là Phật tử chính tông. Nên chi vấn đề đi chùa của họ là đi để lễ Phật cầu bình an, cúng dường tài vật vào chùa để tạo phước, không có quan niệm gì về việc tu học, không có đức tinh vững chắc vào chánh pháp. Từ đó họ nhận thức về tôn giáo một cách ba phải rằng: “Đạo nào cũng tốt”. Tức là họ không thấy cái tốt nhất của đạo Phật là “con đường giải thoát ra khỏi sanh tử luân hồi” mà lòng từ bi và trí tuệ là năng lực vượt thoát. Được năng lực ấy do tu tập giáo pháp. Họ không học Phật pháp và cũng không đọc sách báo để biết đến sự tàn bạo của các tôn giáo khác trên lịch sử truyền giáo của họ. Điển hình gia đình Ngô Đình Diệm là người đạo Thiên Chúa, đã dùng quyền lực giết hại, chôn sống, hăm dọa áp bức những người Phật tử Việt Nam vào những năm gia đình họ Ngô cầm quyền. Vì chỗ không học Phật pháp, không biết mưu đồ đàn áp Phật giáo của ngoại đạo, từ đó không có lập trường vững chắc về tư tưởng, nên trong giao tiếp ngoài xã hội, người Phật tử dễ bị kết duyên với người ngoại đạo. Mà như thế là do không có chánh tín vào đạo pháp nên mới bị đưa đẩy đến hôn nhân ngoại đạo vì quá ham mê vật chất. Mấy lời thô thiển, ít học, nghe lóm về Duyên nghiệp của tôi, ba nó thấy thế nào?

Ông Thông để cái tách uống cạn xuống bàn, bưng bình rót thêm vào, rồi đưa bàn tay phải gãi lên vùng trán sói gần đỉnh đầu, tới lui hai ba lần. Sau đó ông đằng hắng nhìn bà Thông:

- Mẹ mày nói cũng đúng đấy, nhưng xin bà nhớ rằng: nhân duyên tiền định thuộc về định luật nhân quả. Biết đâu người nam, kẻ nữ bên đạo Phật có nợ nần, vay mượn hay gây oan trái với kẻ nữ, người nam bên đạo Chúa ở kiếp trước, nên kếp này bắt buộc phải gặp nhau để mà trả nợ cho nhau. Thành ra cũng khó mà ngăn chặn lắm!

- Vâng, ông nói về nhân quả, tôi đồng ý nhân nào quả nấy. Nhưng ông cũng đừng quên rằng: nghiệp quả cũ ở nhiều đời trước và nghiệp quả mới trong đời hiện tại có thể được chuyển hóa và bị tiêu trừ bằng cách dùng công đức tu tập giáo pháp Phật trong hành trì thiền định, tụng kinh, bái sám, bố thí cúng dường một cách tinh tấn chí thành, nghiệp quả nợ nần, vay trả, sẽ được tiêu tan ngay, thì còn đâu duyên với nợ nữa! Nói như thế không phải mình chủ trương không trả nợ cũ, nợ mới. Phải trả chứ! Trả chứ không đòi. Nghĩa là, thay vì trả bằng tài vật, công sức, bằng máu, bằng sinh mạng, bằng việc làm, lại trả bằng công đức tu hành có trí tuệ. Đó là của báu cao quý nhất. Chẳng khác nào không trả bằng tiền bạc, bằng làm việc, lại trả bằng kim cương (diamond) cỡ bằng chục ly trở lên, giá trị biết chừng nào! Tức là khi mình ra sức tu hành chín chắn, tâm thức thanh tịnh được phát ra trí tuệ, có công đức sâu dày. Tất cả người mà mình mắc nợ ở kiếp trước hay là người khác nợ mình, người nào cũng được hưởng lấy công đức của mình. Đó là cách trả nợ và tha nợ bằng công đức (hồi hướng công đức). Từ đó, người mình mắc nợ được mình trả cho bằng công đức, người mắc nợ mình, họ lại vui mừng vì đã thấy mình được giàu có, không cần đòi họ nữa. Như thế làm sao có chuyện lấy vợ, chồng ngoại đạo!

Do vậy, sở dĩ nam, nữ của các gia đình theo đạo Phật kết hôn với nam nữ ngoại đạo hay là nhằm vào những kẻ ăn chơi, quậy phá, không học hành, không có nghề nghiệp chính thức là giai do không có tu tập Phật pháp, nên chi họ không có chánh tín, toàn là mê tín, không nhận thức được đạo Phật là con đường giải thoat. Đến với đạo Phật mà không biết đạo Phật chủ trương cái gì. Cho nên có người, gặp hoàn cảnh khó khăn là theo đạo Chúa, một tôn giáo không có đạo lý nhân bản hiền hòa, chỉ sắt máu và nhiều tiền của.

Với tôi, học giáo pháp Phật, nghe tăng bảo nói sao, tôi lặp lại vậy cho ông nghe. Ông nghe có lọt tai không nào? Nếu không rõ, mai mốt gặp các thầy, ông cứ hỏi lại đi.

- Được! Điều bà nói, riêng tôi, tôi nghe lọt tai đấy. Nhưng còn chư tăng và các cư sĩ học Phật khác, không biết họ nghe có lọt tai không! Với một bà già trầu, quê mùa, ít học như bà, mà nói Phật pháp như thế, chả có ai mà chấp làm gì, vì rừng Phật pháp rộng bao la, nói cho tận gốc rễ làm cho người nghe được tỏ ngộ không phải dễ, chỉ có các tăng bảo được xuất thân từ Tu viện hay các bác trong hội cư sĩ có quá trình tu học mới có đủ khả năng. Thôi, vấn đề đó cho qua đi. Vấn đề này mới đáng nói đây nè!

- Vấn đề gì, có quan trọng không ông?

- Vấn đề bà bảo tôi khen các con nhà mình. Khen các con, tức là khen mình đó, nghe bà! Vì vậy xin bà nhớ cho, với người Phật tử chính tông đừng bao giờ khen mình, chê người. Khen mình chê người là tự làm cho bản ngã mình thêm lớn ra. Chỉ nên khen người mà chê mình là một cách học hỏi điều hay và lẽ phải, bắc chước tài năng và đạo đức của họ. Nói về khen, nên khen để học và giảm bớt bản ngã. Nói về chê, đừng chê ai hết. Với kẻ phàm phu, nghe khen trước mặt hay sau lưng, liền sanh tâm vui sướng hớn hở, nở mũi ra thật to. Còn nghe chê trước mặt hay sau lưng, tức khắc lòng nổi lên sóng gió đùng đùng, lửa sân hận cháy lên rừng rực. Với bậc Bồ Tát cư sĩ tại gia, hay người Phật tử đã tỏ ngộ chơn lý không bao giờ sanh tâm tiếp nhận vào lời khen, bỏ ra lời chê đó. Do vậy, tôi khen thằng Đạt là để cho mình học hỏi thêm ở cái tài năng và đức độ của nó. Còn bà bắt tôi khen các con, tôi chỉ khen thằng Khánh, con Minh ở lãnh vực học hành là bài giỏi, khá giáo lý. Khen để mà sách tiến, khuyến khích chúng nó, chứ còn con Hà, tôi không khen con Hà, vì khen hay chê gì đối với nó, nó vẫn an nhiên, không quan tâm đến, cứ im lặng như chánh pháp.

 

 

 

 

CHƯƠNG BẢY

 

D

ù nàng có im lặng như chánh pháp, nhưng làm sao giấu được khi đôi mắt của nàng mở tung, nhìn thẳng vào sự vật mà đôi tay đang làm các việc trong trạng thái trang nghiêm là lúc tâm thức nàng đang âm ỉ cấu tạo các pháp vô tướng, đang nghe lòng mình nói thầm những lời hẹn ước hạnh nguyện với Đạt. Do vậy, sự trang nghiêm ở bản thân nàng là thời điểm của tâm thức tư duy sanh khởi ý niệm duyên tình làm công án cho hạnh nguyện giác tha, không phải là trạng thái đi vào thiền định. Vì thân làm mà tâm suy nghĩ trái với khế lý thiền định. Nên chi Minh, em nàng, hỏi nàng trong lúc đẩy xe hàng từ chợ về nhà trên con đường làng tắt nắng:

-Em hỏi thật chị, tình yêu của chị với anh Đạt đã đi đến đâu rồi?

Hà chưa kịp trả lời, Minh nói liền:

- Chị không nói hả? Em biết hết cả rồi! Làm sao giấu được em! Em nhìn đôi mặt chị, dù không khép hở như trước đây, tròn xoe mở lớn, đôi mi cong lên, môi luôn mỉm cười hàm tiếu, trạng thái trang nghiêm ít nói. Em biết ngay tâm thức chị đang an trú vào tịnh lạc. Mà như thế do anh Đạt đã ban cho chị một thứ tình yêu có pha lẫn đạo lý đời và Phật pháp, nên lòng chị đang thưởng thức tình đạo ấy. Chắc chắn lòng chị đang nói thầm với người yêu, đang nghe lời hẹn ước hạnh nguyện mai sau. Tình đạo ấy đối với em đâu có lạ gì nữa! Vì em đã thấy thứ tình ấy ở các anh chị huynh trưởng cũ của em trước đây. Họ đã từng ban cho nhau thời gian đợi chờ trong những năm dài tháng rộng, cuối cùng kết hôn với nhau, sống hạnh phúc, chung thủy với nhau trên đường đời làm ăn sinh sống. Đối với đạo pháp, hiện nay các anh chị ấy không còn sinh hoạt với đoàn nữa nhưng, đã đứng vào đoàn ngũ hóa Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam để tiếp tục tu học và phụng trì đạo pháp. Em nói như vậy đủ cho chị biết là em dư biết tâm thức của chị, làm sao chị giấu được em. Vậy tình của chị và anh Đạt đã đi đến đâu rồi? Nên khai báo thật thà với em,để em chia xẻ và góp ý cho, hí... hí... ok?

- Bộ mày rành hơn tao sao mà đòi góp ý, hả cưng?

- Hơn là cái chắc! Hơn chị là ở chỗ du dương. Ý! Em thấy các anh chị lớn du dương, chứ không phải em du dương. Em hỏi thật chị và anh Đạt, hai người đã đi đến thời điểm du dương chưa?

- Khỉ! Nói bậy không à! Tao và anh Đạt sẽ không bao giờ có cái trò đó đâu, nghe mày! Đúng là ba cái lũ nhóc con bây giờ ghê lắm! Đứa nào cũng biết yêu sớm và biết đủ thứ chuyện trên đời, tao sợ cho tụi bay!

- Chị hai, trong đám yêu sớm đó, không có em đâu, à nghe! Còn trạng thái du dương, chị hiểu thế nào mà chị nói chị không có?

- Thì. Hành động, vậy... vậy... đó!

- Xí! Xin lỗi chị hai. Đúng là đầu óc của chị giàu tưởng tượng quá! Du dương em nói không phải kiểu vậy... vậy... đó đâu! Kiểu đó là kiểu trần tục. Chính cá nhân chị và anh Đạt đang du dương, và gặp nhau cùng du dương mà không biết. Du dương của chị và anh Đạt thuộc về du dương xuất thế gian. Tức là một trong hai hay cả hai đều mong gặp nhau nhưng, khi gặp nhau, thì “tình trong tuy đã, mặt ngoài còn e”. Đến khi mỗi người đều biết mình được yêu, không còn e ấp nữa, nên người nào cũng trao tình cho nhau qua lời nói và hành động chăm sóc cho nhau có chứa đựng văn hóa và đạo đức một cách tự nhiên vui vẻ nhưng, vẫn “nam nữ thọ thọ bất thân”. Điển hình rõ nét là các anh chị huynh trưởng của em trước đây và hiện nay, chỉ đứng gần nhau nói chuyện với nhau; chuyện này chuyện nọ, chuyện sinh hoạt, chuyện đạo pháp mà tâm chứa tình, hay cùng nhau loay hoay trong công tác Phật sự, từ thiện, văn hóa... Họ quấn quít bên nhau, lẩn quẩn tới lui không ngoài c vị trí đạo pháp (Hội Cư Sĩ, GĐPT). Hầu như không thấy các anh chị ấy có mặt ở các phòng trà, nơi dancing, quán xá cà phê, rạp hát... Dĩ nhiên, cuối cùng đều đi đến hôn nhân, thành vợ chồng, sanh con đẻ cái, làm ăn sinh sống, có danh có chức ngoài xã hội, có sự nghiệp vật chất, hưởng lây hạnh phúc bền vững chân thật, chung thủy với nhau đến khi răng long, tóc bạc mà không quên tiếp tục sự nghiệp hành trì giáo pháp, hướng dẫn con cái học hành văn hóa đời và giáo lý Phật để biết cách tu thân, tề gia, phụng trì đạo pháp, nối gót con đương đạo pháp của ông bà cha mẹ đã đi.

Những điều em nói nãy giờ là em đã nghe thấy các anh chị cựu huynh trưởng của em đã thực hiện trước đây và hiện nay đang hành đạo trong Hội Cư Sĩ Phật Giáo. Cũng như em đã nghe thầy trụ trì và anh Đạt giảng về “hạnh phúc gia đình” và “Hôn nhân trong đạo Phật”. Do vậy lời nói của em hôm nay là góp ý cho chị đấy.

- Cảm ơn lòng tốt của em. Nhưng mà lời em nói đối với chị, dư rồi em ơi! Trước hết, chị còn hiểu hơn lời em nói và sẽ hành động tình yêu đời, lẫn cả đạo pháp còn hơn các anh chị huynh trưởng của em trước đây và bây giờ. Thứ nữa, trong tương lai, từ sự sinh hoạt trong gia đình đến dắt dẫn con cái học văn hóa đời và giáo pý Phật, chị sẽ có anh Đạt đảm trách, đâu cần hôm nay em góp ý!

- Rồi, em xin rút lui lại lời góp ý của em. Ngược lại, điều gì chị hiểu hơn em, xin chị nói cho em nghe để em rút kinh nghiệm về việc hôn nhân của em trong tương lai?

- Vâng, em muốn nghe, chị sẵn sàng nói. Đúng ra, em chưa nên nghe điều chị sắp nói. Tuy nhiên, em đang ở vào tuổi hai mươi, có thể nghe được. Điều chị nói ra đây thuộc về kỹ thuật kiến tạo những đứa con trai hay gái có một bộ óc thông minh, một tâm trí sáng suốt trong một thân thể tráng kiện, có sức khỏe tốt, không có bệnh tật bẩm sinh. Trong tương lai, sau thời gian cặp tình nhân kết hôn. Kỹ thuật kiến tạo bằng chất liệu thân tâm thanh tịnh, cùng với những trạng thái trao tình có tỉnh thức. Vì trạng thái tỉnt thức phải được thường xuyên an trú trong thân tâm con người phàm phu nam, nữ cư sĩ đang tu tập và thực hành Phật pháp ở các hành động sinh hoạt làm ăn sinh sống hằng ngày, thì lúc trao tình giao hợp cũng phải có. Vì sự giao hợp cũng giống như là một trong những sự nhu cầu của con người là cơm ăn, áo mặc, nước uống... Chị muốn nói riêng ở trạng thái ái ân lúc trao tình cho nhau của nam nữ GĐPT và cư sĩ. Nhất là phái trẻ phải được thanh tao, có nêáp sống văn hóa ở hành động và lời nói ái ân, có đạo đức ái tình; lúc nào tâm thức cũng phải bình tỉnh, tuần tự trang nghiêm, không  hấp tấp, không rộn ràng, không có cử chỉ thô bỉ... Ngoại trừ các tăng bảo thân tâm đã đứng ra ngoài thế gian, còn kẻ phàm phu Phật tử đang tu tập Phật pháp để bước dần lên bậc thánh đều phải có yêu đương, trao thân gửi tình cho nhau nhưng, không thể thả tâm hồn buông lung rối loạn, dù cho dắt nhau lên đồi cỏ xanh vào sáng sớm mùa xuân có nắng ấm, hái đóa hoa rừng tặng cho nhau, hay song hành bước chậm, giẵm lên bọt nước trên bãi cát biển vào trưa hè nắng cháy, đọc một bài thơ, hát một bài hát, đàn một khúc nhạc cho nhau nghe lúc đến thăm nhau ngồi mãi chưa về vì bên ngoài trời đang mưa thu. Mỗi mỗi trạng thái ân tình đừng quên đưa thân tâm vào tỉnh thức. Tâm tỉnh thức lúc trao thân gửi tình ái giao hợp khó hơn ở các việc làm khác nhưng, nó là điều kiện ắt phải có để làm duyên tiếp xúc, hội ngộ với các bậc Bồ Tát, thánh nhân, thiện hữu tri thức mang hành nguyện tái sinh vào đời để thành tựu các công đức hóa độ chúng sanh theo ánh sáng rực rỡ được phát ra từ tâm thức của cặp vợ chồng lúc giao hợp. Ánh sáng lúc ấy rất là lớn và rực sáng, vì cả hai cây đuốc trí tuệ của hai người cùng chiếu vào góc độ tỉnh thức. Em có biết ánh sáng đó từ đâu mà có không?

            Theo em hiểu, cũng như chị vừa mới nói là do công năng tu tập thiền định, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, lạy sám hối và làm các việc từ thiện, luôn luôn giữ tâm hồn cho thanh tịnh, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, người Phật tử tu tập Phật pháp không đánh mất tâm thanh tịnh. Đó là thói quen, chính là nghiệp. Nghiệp có ánh sáng rức rỡ là nghiệp quả thiện là cánh cửa mở đón nhận các chủng tử thiện nghiệp, tức là các bậc Bồ Tát, thánh nhân, thiện hữu tri thức nguyện tái sanh vào đời làm con trai con gái của các Phật tử cư sĩ có tu tập Phật pháp được có trí tuệ. Trường hợp này thường có ở các vị Lạt Ma tái sanh.

            - Đúng! Em của chị giỏi giáo lý lắm!

            - Đoàn sinh GĐPT mà chị, không giỏi sao được!

            - Em hiểu giáo lý, em nói đúng khế lý, em lý luận chính xác. Đó là cái tài nhưng, tài phải đi đôi với đức độ khiêm tốn, không phô trương tự mãn, đừng thấy mình có tài mới xứng đáng người Phật tử đeo hoa sen trắng. Với em, chị thấy em được cả hai tài và đức. Cứ như thế mà phát huy, chứ đừng theo vết chân có in dấu ngã mạn của một số rất ít anh chị huynh trưởng trước đây và hiện nay. Tánh đức độ được có do tâm có từ bi thật. Tâm từ bi dân chủ có do trí tuệ đẻ ra. Trí tuệ được có do tâm từ bi đẻ ra, hai thứ bổ sung cho nhau, từ đó ánh sáng được có trong tâm thức con người xuất gia hay tại gia do công đức tu hành. Do vậy, các bậc thánh thiện tái sanh vào đời mượn gia đình cư sĩ tu tại gia làm sở trụ cho cuộc hành trình hóa độ chúng sanh. Để chứng minh điều đó, em cứ tìm đọc tiểu sử ra đời và hành đạo của các bậc xuất gai chân tu như ngài Quảng Khâm, ngài Tuyên Hóa, Đạt Ma Tổ Sư, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Lục Tổ Huệ Năng... và gần đây nhất là chư tôn giáo phẩm hiện nay đều được xuất thân từ một gia đình cư sĩ có tu hành. Về các bậc cư sĩ tại gia như: vua Ba Tư Nặc, Thắng Man Phu Nhân, Vua Trần Nhân Tôn, Lý Công Uẩn, Tuệ Trung Thượng Sĩ v.v... được chào đời từ một gia đình Phật tử có tu hành đúng pháp. Thực tế nhất, ngay gia đình mình đây nè. Chị em mình được cha mẹ sanh ra và lớn lên, hiện nay được biết tu, biết học Phật pháp. Có phải là do ông bà cha mẹ mình đã có tu học Phật pháp lúc còn trẻ trong GĐPT, và nay đang tiếp tục tu tập và phụng trì Phật pháp trong hội cư sĩ không? Nhìn em Khánh, tuổi mới mười lăm mà nó theo ba đi tụng kinh, đọc sách khoa học, thiên văn, sách Phật pháp. Tâm trí nó lúc nào cũng hướng thiện. Trong khi các trẻ khác cùng xóm, tuổi nhỏ hơn hay lớn hơn nó, đã và đang cãi lại cha mẹ, theo chúng bạn xấu ác, gây nhiều tội lỗi.

            Nói như thế, không phải mình tự khoe khoang, tự ngã mạn về gia đình mình. Rất nhiều gia đình có tu tập Phật pháp sanh con cái được nối gót cha mẹ tu học giáo lý như vậy. Đúng ra chị lấy gia đình anh Đạt làm điển hình nhưng, sợ em nói chị có thiên vị, ngã vêè anh Đạt. Từ đó một gia đình theo đạo Phật có tu tập Phật pháp là một đạo tràng thanh tịnh có đủ hai chúng: Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Cha và con trai là Ưu Bà Tắc, mẹ và con gái là Ưu Bà Di, cùng nhau tu tập và phụng trì chánh pháp. Như thế, những người trong gia đình tu tập chánh pháp không phải là những người đến đòi nợ và trả nợ, mà toàn là những thiện hữu tri thức, Bồ Tát, thánh nhân hội ngộ với nhau đóng vai cha mẹ, con cái, vợ chồng trên đường đời vừa làm ăn sinh sống vừa hành trì Phật pháp hóa độ chúng sanh tại gia cư sĩ và xuất gia làm Sa Môn theo sở trường hạnh nguyện của mỗi người.

*

*   *

            Hà đang say sưa bằng giọng nói nhỏ, đều đặn, bỗng dưng đổi lời với âm thanh cấp cứu:

            - Minh! Minh! Dừng lại, dừng lại, đừng đẩy nữa, mấy gói hàng nằm trên, phía trước nghiêng ra, sắp rớt rồi kia!

            Cùng với tiếng nói, hai tay nàng níu lui càng xe. Minh cũng thế, đã đáp ứng kịp thời, làm cho chiếc xe ba gác đầy hàng nặng trịch chậm lại và ngừng hẳn bên vệ đường. Hà liền bước tới trước, vừa sắp xếp lại vừa nói:

            - Khi hồi chị bảo em, những thứ nhang, đèn này nên cất lại trong sạp cùng với mấy thứ kia giống như mọi khi, mất công mang về, mang ra, làm choán chỗ những thứ dễ vỡ.

            - Em nghe chị nói nhưng, lại làm khác. Vì em nghĩ rằng, cuối năm, gần Tết nhất đến nơi, lỡ ra bị mất mát, mẹ sẽ rầy chị em mình, mặc dù có khóa kỹ. Nghĩ vậy, em mới đem hết nhang, đèn về cho chắc ăn.

            Hứ! Em sợ kẻ trộm lấy nhang đèn, còn những thứ khác như dây chạc..., em không sợ à? Đã là ăn trộm, họ đâu có chừa ra thứ gì?

            - Ờ hễ! Hí... hí... hí...! đúng là ý nghĩ của em quá ư thiển cận, hả chị hai! Em cứ nghĩ gần Tết người ta sẽ ăn trộm nhang đèn để cúng Tết, chứ không sợ mất các thứ khác.

            - Từ rày về sau, em đừng quan tâm đến việc mất mát, trộm cắp làm gì nữa nhé.

            - Tại sao đừng?

            - Dễ quá mà, nói đi!

            - Tại vì... tại vì... Minh ngập ngừng.

            Hà nhấn mạnh:

            - Vì dân làng, xã, trong hai quận ta từ ngàn xưa đến nay không có chỗ nào bị trộm, cướp. Kể cả giựt nợ cũng không, dù có người nghèo rớt mòng tơi đi nữa! Được như thế là do ảnh hưởng truyền thống theo đạo Phật từ thế hệ tổ tiên ông bà đã qua, đến thế hệ cha mẹ, con, cháu hiện nay và sẽ tiếp nối mai sau. Còn riêng một vài nơi trong nước thường xảy ra trộm, cắp, cướp, giựt là riêng những cá nhân có hành động phạm pháp đó không phải là người thuộc gia đình theo đạo Phật. Vì người theo đạo Phật chánh tông có giữ giới cấm của Phật dạy. Chỉ có những người trần tục, hoặc là người có theo đạo Phật nhưng không giữ giới, nên họ gặp lúc nghèo túng do các nguyên nhân đưa đến: thiên tai, chiến tranh, nghiện ngập vì hút xách, cờ bạc... tạo nên cho họ một cuộc sống không còn gì khác hơn, trên răng dưới gối. Từ đó, tâm thức của họ bị điên đảo, liền sanh ra ý niệm trộm cắp cướp giựt làm chủ, rồi đưa đẩy thân họ đi thực hiện hành động phạm pháp mà người đời thường nói: “Bần cùng danh đạo tặc”, tức là quá nghèo, hết phương cách để sống làm cho quẩn trí, bèn đi trộm, cắp, cướp, giựt. Nêu không do hoàn cảnh như đã nói, thì cũng do tánh lười biếng, chỉ muốn hưởng mà không muốn làm. Không làm mà được có của để hưởng, chỉ có ăn trộm, ăn cướp mới có, nên chi người đời có câu: “Một năm ăn trộm bằng ba năm làm”. Hoặc là những kẻ có đi làm nhưng lại có tánh xài sang, làm ít mà xài nhiều, gọi là “làm ngắn cắn dài”, không ý thức được tiết kiệm: “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, tức là nên cất giữ tài vật, lúa gạo, quần áo... , để được no khi bị đói, để được ấm khi bị lạnh. Họ không biết giá trị sự tích trữ đó, nên hoang phí vật chất, đến lúc gặp hoàn cảnh bị mất việc (job) thất nghiệp lâu ngày, quen thói ăn chơi, làm ít xài nhiều. Khi nhìn lại trong nhà thấy không còn gì để cầm, để bán, bèn đi ăn cướp, giựt, trộm, cắp. Chứ còn người giàu có, của cải đầy kho, hay là người nghèo hèn có ý thức được tội lỗi, ngục tù, biết an phận thủ thường, biết tìm cách làm ăn đúng pháp luật để đưa cuộc sống từng bước vươn lên, không ai đi trộm cướp làm gì.

            Với người Phật tử cư sĩ tại gia trong sự thực hành Phật pháp có cả lấy đức tin vào “nhân quả” để làm pháp an tâm, tức là không còn bận tâm lo lắng sợ mất của, do có hành trì Phật pháp. Nhờ năng lực đó ngăn cản kẻ tham không đến lấy của ai, bây giờ không ai, lấy của mình. Đến khi bị mất của là do nhân quả có thể mình đã lấy của họ ở quá khứ, bây giờ họ đến lấy lại. Nếu họ là người tự tạo nghiệp trộm, cướp, họ sẽ bị quả báo, nên chi đừng sanh tâm bực tức, buồn phiền, lo lắng nuối tiếc khi của bị mất, vẫn an nhiên vui vẻ như mình đã làm được một việc bố thí tài vật cho kẻ nghèo. Chẳng những thế mà còn bố thí luôn cả pháp bằng tâm cầu nguyện cho họ mau thoát khỏi nghiệp trộm, cướp, được gặp lại duyên lành vật chất trong cuộc sống. Do vậy chị mới bảo em đừng quan tâm, lấy pháp “nhân quả” để nhiếp tâm vào vị trí an lạc.

            - Chị hai, theo chị hiểu Pháp nhiếp tâm vào Định, có bao nhiêu Pháp?

            - Em hỏi gì mà khó vậy! Nhưng theo chỗ chị hiểu; tất cả tám mươi bốn ngàn pháp môn tu của đạo Phật, pháp nào cũng là pháp nhiếp tâm vào Định. Do vậy, mới gọi đạo Phật là con đường giải thoát, là đạo duy tâm, vì tâm không Định, làm sao được giải thoát! Đó là trên cơ sở tổng quát về nền đạo lý của Phật giáo. Còn cá nhân nào được hiểu sâu, cạn khi đọc đến một vài pháp môn nào đó, rồi tự tư duy tìm thấy trong đó có chứa đứng pháp nhiếp tâm vào Định là do căn cơ trình độ của người ấy. Với chị, sự hiểu Phật pháp của chị rất là giới hạn do chị tự mình tìm hiểu khi nhìn xuyên qua một số pháp, như “nhân quả” để ngăn ngừa tội phạm. Pháp “vô trước” tức là tâm xả bỏ để diệt phiền não. Pháp “bố thí” để diệt lòng tham, và pháp cầu nguyện cho chúng sanh mà chị tự mạo muội đặt cho cái tên “Pháp vị tha”, nếu không nói là tâm từ bi bao la đối với chúng sanh mà đức Phật đã dạy cho các đệ tử ngài. Nhất là bậc xuất gia luôn luôn hướng tâm cầu nguyện cho chúng sanh được an lành, được mau gặp đạo Bồ Đề. Cho nên trong mỗi động tác sinh hoạt hằng ngày như vào restroom, rửa tay, uống nước, ăn cơm, bắt đầu ngồi thiền, cạo tóc, bước xuống giường khi thức dậy, v.v... đều có câu chú riêng ở mỗi việc ấy. Nhưng khi đọc xong, câu nào cũng có lời cầu nguyện cho chúng sanh ở phần giữa câu chú: “Đương nguyện chúng sanh”, tức là cầu cho chúng sanh. Sau đó đọc tiếp câu thần chú.

            Đó là cách thực hành đúng pháp của người Phật tử xuất gia và tại gia theo hoàn cảnh của mình.

            Hai chị em nàng cứ cho xe lăn bánh với tốc độ như người đi bộ nhanh hơn một bước bình thường khi men chiều mùa đông đang vươn lên từ đồng ruộng, vườn cây mang theo không khí lành lạnh. Nên sau khi nàng ngưng nói, đi trong chừng mươi mét, Hà để cho Minh một mình vịn tay vào càng xe, nàng đưa tay ra sau mái tóc, gỡ sợi dây vải nâu để cho mái tóc buông xõa, che gió cho cổ và bờ vai khỏi lạnh.

            Như để làm cho quên đi sự mệt mỏi khi phải đẩy một chiếc xe chở hàng nặng trịch đi trong im lặng. Và, với tinh thần cầu tiến học hỏi giáo lý đói với một đoàn viên GĐPT xuất thân từ trong một gia đình tu hành, Minh không để cho Hà và mình đi trong nín thinh, Minh gợi thêm câu hỏi:

            - Đúng pháp là như thế nào, hả chị hai?

            - Đúng pháp là hành đúng, đừng hành sai chánh pháp. Hành sai làm sao đạt đạo! Tất cả pháp môn tu của đạo Phật cùng có một năng lực chuyển hóa tâm con người từ ác thành thiện, từ vô minh thành trí tuệ, từ phiền não thành an vui và thanh tịnh, nếu con người thực hành đúng. Thực hành thường xuyên không có giới hạn thời gian, nơi chốn và sự hứa hẹn nào cả. Vì pháp luôn luôn có mặt và tồn tại phi thời gian, nơi nào có con người, ở đó  pháp được hiện hữu. Do vậy, pháp luôn luôn lưu nhuận theo mọi tình huống và hoàn cảnh, ăn khớp với tâm thức và hành động của thân khi tạo tác ra nghiệp. Với người Phật tử hành đúng pháp, khi tai nghe mắt thấy các sự việc (cảnh trần) có năng lực làm cho tâm đi vào vô minh, phiền não. Tức khắc dùng pháp để nhiếp tâm an trú ở vị trí thanh tịnh theo mọi tình huống. Tình huống nào, hoàn cảnh nào đều có pháp đối ứng ngay. Chẳng hạn thấy, nghe tài vật của mình, của con cái, dòng họ, bà con, bị mất mát do kẻ trộm đánh cắp, liền dùng pháp “vô thường” để nhiếp tâm. Từ đó thân tâm con người an trú vào trang thái an lạc, thanh tịnh, xả bỏ không còn sanh tâm nuối tiếc của mất, xem thường của cải hiện còn như tro bụi, thấy rõ con người và vạn hữu có rồi lại không, của cải đến và đi như gió thổi, như mây bay, như nắng chiều qua cửa, như con phù du sớm còn tối mất.

            Dù men chiều lẳng lẻ trôi trong màu tím

LỜI PHẬT DẠY

  

1.- “Này các Tỳ Kheo, Ta nói rằng sự phá trừ kiến chấp là việc làm của kẻ đã hiểu và đã thấy, chứ không phải việc của kẻ không thấy, không hiểu mà làm được”.

 

2.- “Nhân duyên kết tụ hòa hợp với nhau thì mới sinh ra hư vọng giả tướng. Nhân duyên chia lìa, thì hư vọng giả tướng tiêu tan. Cho nên sinh cũng chẳng thật sinh, mà diệt cũng chẳng phải thật diệt, chỉ vì nhân duyên hòa hợp tương dung, hay tan rã. Cho nên có cũng do nhân duyên, mà không cũng do nhân duyên”.

 

3.- “Này các Tỳ Kheo! Chừng nào mà các vị còn thực hiện được bảy điều ấy – gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái. Không một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn. Chỉ có những phần tử từ bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi. Các vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa của mọi loài ở chốn sơn lâm ngã quị, không có một loài nào dám đến ăn thịt nó; chỉ có những con trùng phát sinh từ bên trong thân thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo vệ chánh pháp bằng cách sống theo bảy phép bất thối, đừng bao giờ tự biến mình thành những con trùng trong thân thể con sư tử.”

 

(Trích trong Đường Xưa Mây Trắng của Thích Nhất Hạnh, San Jose, Lá Bối in lần thứ hai – 1992, trang 546-547)

 

 DaoHuu_Duc_Hanh_HT_MinhTam

 

Lời Tác Giả

 

Chư tôn giáo phẩm Phật Giáo Việt Nam được xuất thân từ các Phật học viện trước 1975 trong các thế hệ tiền bối và hiện nay tại quốc nội và hải ngoại, vị nào cũng đã hơn một lần thuyết pháp riêng về hai đề tài “Bồ tát hạnh trong đạo Phật”, và “Ý nghiã Phật đản sanh”, đều nói đến tiền thân một vài chư Phật  và Bồ tát quen thuộc như Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Văn Thù, ... nói chung, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói riêng. Trước khi thành Phật dưới cội cây Bồ đề, Ngài đã làm vô số loại thân chúng sinh, nên Ngài đã từng bị ra, vô, lên, xuống sáu cõi sinh tử luân hồi của chúng sanh. Nhất là hai cõi Địa ngục A tỳ và Cõi người thường gọi là cõi Ta bà, được đại tạng kinh Phật nêu lên vô số quá trình hành động cứu khổ, ban vui, lợi tha cho chúng sanh về nhiều mặt vật chất và tinh thần một cách tích cực, bình đẳng, không đắn đo, do dự suy tư, cắt xén khi Ngài làm thân chúng sanh tại hai cõi ấy. Nếu không nói là khi Ngài có mặt tại hai cõi địa ngục A tỳ và cõi người, tâm thức Ngài thường nghĩ đến chúng sanh bằng tâm, biết thương yêu chúng sanh bằng trí xuất thế gian, nên lúc nào Ngài cũng có niềm khát vọng muốn cứu bạt chúng sanh ra khỏi những đường ác.

Do vậy mà, tại cõi Địa ngục A tỳ, Ngài đã sinh khởi lên ý niệm cứu khổ khi mắt ngài nhìn thấy một bạn đồng cảnh ngộ đang bị con quỷ sứ hành hạ, đánh đập vào tấm thân gầy còm vì đói khát không đủ sức nâng lên cái thùng phân nặng triũ. Nên ngài liền nhảy vào giúp sức với người bạn, dù bị con quỷ ngăn cản, đánh vào thân ngài một cách dồn dập bằg thanh sắt, nhưng ngài vẫn đưa hai bàn tay vào khiêng thùng phân với người bạn đến mục tiêu quy định.

Sau giây phút xông pha, liều mình, không sợ hãi, chịu đựng đau đớn ở bản thân trong hành động cứu khổ cho tha nhân đồng cảnh ngộ tại địa ngục A tỳ. Ngài liền được vượt thoát ra khỏi địa ngục A tỳ, sanh lên làm người tại cõi ta bà.

Tại cõi Ta bà, ngài làm thân người trong vô lượng kiếp, chứ không phải một kiếp, đúng như lời ngài đã xác định “Ta vốn ở trong cõi ta bà thế giới này từ vô lượng kiếp về trước, chứ không phải mới sinh tại vườn Lâm tỳ ni” khi ngài thuyết về khế lý Bản môn và Tích môn của chư Phật và Bồ tát ở hai phẩm Tùng địa dõng xuất và Như lai thọ lượng trước hàng nghìn thánh tăng và cư sĩ tại đạo tràng Pháp hoa trong thời điểm “Khai quyền hiển thật” hay cũng gọi là thời “Nhật một hoàn chiếu cao sơn”, Pháp hoa niết bàn trước khi Phật vào Niết bàn.

Qua chơn ngôn trên của Đức Phật, ta thấy ngài là một con người thật (chúng sanh) bằng máu huyết, xương, thịt như vô số lượng chúng sanh (con người) khác đang hiện hữu trên mặt trái đất này. Nên ngài cũng có cha, mẹ, quyến thuộc, nội, ngoại, gia cảnh và sự nghiệp trên đời giữa xã hội con người. Vì đã là con người có xác thân do tứ đại hợp duyên, ắt phải sống theo với dòng sinh mệnh của con người trên trái đất này. Nhưng tâm thức ngài thì khác hẳn với vô số lượng chúng sanh đang có mặt đồng thời với ngài. Sự khác biệt ấy là Phật tánh được phát triển và đang vươn lên nở hoa Bồ đề trong tâm ngài, đúng như ngài đã nói “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.  Phật tánh trong lòng được vươn lên và nở hoa Bồ đề, như hoa sen kia còn trong nước, chưa nở hoa mà đã có qủa. Nói khác hơn, Bồ đề tâm hay Phật tánh trong lòng người được nẩy nở và phát triển, vươn lên như là một đóa sen trong nước. Mà đã là hoa sen dù chưa ra khỏi mặt nước, nhưng nó đã có hạt trong đó. Tức là trong nhân có quả, trong quả có nhân, như trí tuệ bình đẳng từ trong thật tướng bình đẳng. Do vậy, dù làm kiếp người, nhưng kiếp người của ngài rất là đặc biệt, đó là luôn luôn làm thân trai, không bao giờ làm thân gái. Gia đình tại cõi người mà ngài chọn để ứng thân vào làm thân nam nhi, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, xứ sở. Dù gia đình được chọn làm con là thứ dân, trung lưu, thương gia, nông dân, thợ thuyền, quý tộc hay vua chúa cao sang..., thuộc dân tộc Tây, Tàu, Nhật, Ấn, Mỹ, hay Việt... Bên xứ Đông phương, Tây phương, Mỹ châu, hay Úc... không thành vấn đề. Miễn là gia đình ấy có đạo đức Phật giáo và nhân bản có thiện căn, biết tu tập Phật pháp, biết thương dân tộc, có tâm từ bi, biết bênh vực lẽ phải cho con người, có tấm lòng cứu khổ, lợi tha cho chúng sanh..., là ngài ứng thân vào làm con trai. Chứ không phải riêng gì xứ Ấn Độ. Đích thực, nhờ Phật tánh trong tâm đang phát triển, cha mẹ, quyến thuộc cũng đang có Bồ đề tâm là những nhân duyên Phật pháp có năng lực đưa đẩy Đức Phật bắt gặp chánh pháp. Vì vậy mà giữa khoảng thời gian vô lượng kiếp làm người tại thế gian, Đức Phật đã đến chỗ Đức Phật Nhiên Đăng để lễ bái, cúng dường hoa sen và nghe Phật Nhiên Đăng thuyết pháp, đúng như trong kinh Pháp hoa ở phẩm Như Lai Thọ Lượng, Đức Phật đã nói trước chúng hội Bồ tát: “Các thiện nam tử, nơi chặng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng...(Y nguyên văn Pháp Hoa trang 372 - bản dịch của HT Thích Trí Tịnh).

Cụm từ “Nơi chặng giữa đó” mà Đức Phật đã nhấn mạnh, cho ta thấy rõ rằng, chính là một chuỗi thời gian sau cùng của vô lượng kiếp làm người của ngài, mà kiếp nào cũng đều làm người thanh niên học phật đang trên đà tự mình thực hành Bồ tát đạo ở 10 địa của Bồ tát tại thế gian trong việc thực tập giáo pháp và mọi hành động cứu khổ, lợi tha ban vui cho chúng sanh để hầu mong đạt được mục tiêu tối hậu là trí tuệ bình đẳng vô sai biệt, đúng như ngài đã nói: “Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ tát, cảm thành thọ mệnh...” Do vậy mà ngài đã đạt được quả vị “Vộ thượng chánh đẳng chánh giác” cũng ngay tại cõi Ta bà nơi chặng giữa thời gian ấy, đúng như ngài đã nói: “Nhưng, thiện nam tử! Thực ta thành Phật nhẫn tại đây đã vô lượng, vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp” (Pháp hoa - Phẩm Như Lai Thọ Lượng - trang 374)

Nói rằng tiền thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn làm người nam nhi tại cõi Ta bà trong vô lượng kiếp về trước đã tự mình tri hành Bồ tát đạo mà được thành Phật. Điều đó là một sự thật đúng lý của tự giác trên cơ sở nhân duyên căn bản chính yếu là Phật tánh trong tâm ngài đang được phát triển cực mạnh như hoa sen kia từ lòng nước tự vươn lên nở hoa trên mặt nước. Nhưng theo định lý duyên khởi, một hoa sen không thể tự mình nở hoa. Mà phải nương vào các nhân duyên phụ, đó là bùn, nước, ánh nắng, và không khí. Cũng như vậy, sự nghiệp thành Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni tại cõi Ta bà thế gian khi còn làm thân nam nhi trong vô lượng kiếp về trước, đều có những nhân duyên phụ giúp đỡ ngài suốt trên vận hành Bồ tát đạo vào đời cho mục đích giác ngộ thành Phật. Một trong những nhân duyên phụ giúp đỡ ngài một cách tích cực trong sự nghiệp mưu sinh ở đời và đạo pháp trong việc hành trì Phật pháp và cứu giúp chúng sanh về mọi mặt vật chất và tinh thần. Đó là tiền thân của công chúa Gia Du Đà La trong vô lượng kiếp làm thân nữ nhi tại cõi ta bà thế giới này. Kiếp nào cũng trợ duyên cho ngài trong vai trò người vợ có tình yêu xuất thế gian trí, nên không bao giờ có lời nói và hành động nhân ngã, bỉ thử, tham luyến chức quyền, chấp chặt tiền tài một khi tiền thân của ngài là vua chúa, thái tử, quan quyền, tướng quân, qúy tộc hay thương gia giàu có. Cũng như không bao giờ âu sầu, khổ não, buồn phiền một khi tiền thân làm người của ngài là thợ thuyền, nông dân có chân lấm tay bùn hay là làm người thứ dân nghèo khó... ở bên Đông, bên Tây, thuộc dân tộc nào đi nữa. Tất cả đều cùng với ngài luôn luôn thể hiện tâm từ, tâm bi trong hạnh nguyện Bồ tát cứu khổ chúng sanh được ấm no, ban vui cho chúng sanh được hạnh phúc theo khả năng của giai cấp mình. Và, trong việc phụng sự và phụng trì đạo pháp bằng tâm có trí tuệ , nên chi giáo pháp giải thoát đươc áp dụng cho mình, cho chúng sanh là những giáo pháp chứa đựng thực chất nguyên lý giải thoát đích thực.

Nguyên nhân mà tiền thân Đức Phật Thích Ca khi còn làm người nam nhi tại thế gian tên Tất Đạt được gặp người thiếu nữ là tiền thân công chúa Gia Du Đà La làm vợ, là do trên đường đi đến chỗ Phật Nhiên Đăng để lễ bái, cúng dường và nghe pháp có ghé lại bên đường để mua hoa sen cúng Phật. Người bán hoa sen là một cô thiếu nữ, chính là tiền thân công chúa Gia Du Đà La.

Mối tình giữa người thanh niên Tất Đạt (Tiền thân Đức Phật Thích Ca) và cô thiếu nữ bán hoa sen (tiền thân công chúa Gia Du Đà La) được ghi trong đại tạng kinh một cách ngắn gọn. Được Chư tôn giáo phẩm Phật Giáo Việt Nam thường kể sau một thời pháp về tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Quý ngài kể rằng: “Tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni trong vô lượng kiếp làm thân nam nhi tại cõi Ta bà tên là Tất Đạt. Vì Tất Đạt vốn sẵn có Bồ đề tâm đang phát triển, nên sau khi nghe dân trong làng, xã rủ nhau đi đến chỗ Phật Nhiên Đăng đang thuyết pháp tại một xứ rộng lớn cách xa làng xã hàng chục cây số, liền xin phép cha mẹ, rồi bôn ba ra đi với hoài bão từ lâu là mong được gặp Phật để lễ bái, cúng dường và nghe Phật thuyết pháp. Trên đường đi, Tất Đạt ghé lại bên đường nơi có những gánh hàng bán hoa sen để mua hoa cúng Phật. Tất Đạt lúc nào cũng thích hoa sen trắng hơn, nên qua hai gánh hàng hoa, không chỗ nào còn hoa sen trắng, chỉ còn hoa sen hồng. Đến hàng thứ ba, Tất Đạt nhìn thấy có hoa sen trắng, liền bước tới, dán mắt vào gánh hoa, không để ý gì tới lời chào, mời của cô chủ hàng hoa. Sau một vài giây phút ngắm nghía hoa, rồi cầm lên tay, Tất Đạt hỏi cô thiếu nữ về giá cả bao nhiêu mỗi đóa. Cô thiếu nữ trả lời mỗi đóa một đồng, và mời Tất Đạt mua hết mười đóa của bó còn lại. Sau đó Tất Đạt nhã ý muốn mua bảy đóa thôi vì trong túi chàng chỉ còn bảy đồng. Nhưng cô thiếu nữ không chịu bán lẻ, đòi bán nguyên bó theo lời căn dặn của mẹ nàng. Do vậy Tất Đạt bỏ đi không mua nữa. Nhưng mới đi vài bước, được cô thiếu nữ gọi lui và chịu bán bảy đóa, và xin gửi ba đóa cho Tất Đạt, nhờ Tất Đạt dâng lên cúng Phật Nhiên Đăng dùm cho nàng.

Sau giây phút chia tay nhau đó, rồi mỗi người đều kéo theo trong hành lang trí óc những ngày tháng quên lãng và vô tình. Nhưng với Bồ đề tâm phát triển trong lòng người là chất liệu kiến tạo một thứ tình yêu xuất thế gian có năng lực làm nhân duyên nối kết với những chúng sanh nào có cùng thể tánh Bồ đề theo quy luật: hễ có qủa báo thiện nghiệp là bắt gặp nhân duyên Phật pháp. Do vậy mà người thanh niên Tất Đạt được cô thiếu nữ bán hoa sen của ngày trước tìm gặp. Trong những lần gặp gỡ nhau, Tất Đạt biết người thiếu nữ có tấm lòng yêu thương mình chơn thật qua lời nói ái ngữ và trạng thái khiêm cung được phơi bày lên ánh mắt của nàng. Nếu không nói là dòng suối từ bi tâm của nàng đang tuôn chảy vào bản thể trang nghiêm của Tất Đạt. Cho nên Tất Đạt đã đưa ra nhiều hạnh nguyện Bồ tát vào đời của mình trong việc cứu khổ chúng sanh và phụng trì chánh pháp rất là khó thực hiện. Chẳng hạn, Tất Đạt đưa ra điều kiện là sau khi lập gia đình, chàng đi xuất gia. Lập gia đình là hằng thuận theo lệnh cha mẹ vì chữ hiếu, còn xuất gia là việc chánh của phương tiện hóa độ chúng sanh. Nhưng không ngờ cô thiếu nữ đều nhận chịu và xin áp dụng trước mặt Tất Đạt. Vì vậy mà trong giữa đêm tại hoàng cung vua Tịnh Phạn cách nay gần ba nghìn năm, công chúa Gia Du Đà La có biết thái tử Tất Đạt Đa vào từ giã mình và con trai là La Hầu La trước khi ra khỏi thành đi xuất gia. Nhưng công chúa Gia Du Đà La vẫn nằm im để cho thái tử ra đi, không một lời bịn rịn hay ngăn cản. Bởi vì đã có lời xin nhận chịu và áp dụng những điều kiện mà Tất Đạt đã đưa ra trong vô lượng kiếp về trước. Trong đó có điều kiện là đi xuất gia sau khi lập gia đình.

Cho nên vấn đề Đức Phật Thích Ca thị hiện vào cõi Ta bà trái đất này cách nay gần ba ngàn năm làm thân thài tử, con vua Tịnh Phạn. Lớn lên kết hôn với công chúa Gia Du Đà La là hằng theo ý muốn của vua cha. Sau đó đi xuất gia, tu 6  năm khổ hạnh trong rừng, chứng đạo Bồ đề, thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm rồi nhập Niết bàn. Tất cả Tích môn như vậy chỉ là phương tiện vì mục đích chỉ cho chúng sanh tu giáo pháp vô ngã để vượt thoát sinh tử mà thị hiện, như bóng trăng dưới nước. Bóng trăng dưới nước được có là do mặt trăng trên bầu trời.  Trăng trên bầu trời thì vĩnh hằng trường tồn không mất. Còn trăng dưới nước khi có khi không là do điều kiện của nước. Nói khác hơn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật ngay tại cõi Ta bà này từ vô lượng kiếp, nên pháp thân Phật không bao giờ mất, dù cho vào Niết bàn, như trăng trên bầu trời không sinh diệt. Nhưng vì muốn hóa độ chúng sanh tại cõi Ta bà này, nên Đức Phật thị hiện ra nơi đời do căn cơ và nghiệp quả của chúng sanh, nếu không nói là bản thể chúng sanh quá ư vô minh và uế trược. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ra tại cõi Ta bà này nói riêng, không phải là lần đầu hay lần cuối, mà đã thị hiện vô lượng thế kỷ và đang thị hiện. Nhưng vì chúng sanh quá ư mê vọng nên không thấy, cho rằng Đức Phật đã vào Niết Bàn vĩnh cửu không trở lại trần gian. Thật sự Đức Phật đang có mặt tại thế gian này, đúng như lời Đức Phật đã nói: “Ta lúc trẻ xuất gia được vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng thực ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh , khiến chúng sanh vào Phật đạo, nên nói như thế”. Đức Phật nói tiếp: “Những người đức mỏng, trải qua trăm  nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thành Phật, hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: “Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể được thấy”. (Pháp hoa - Phẩm Như Lai Thọ Lượng, trang 373, 375)

Qua những chơn ngôn trên của Đức Phật, ta thấy rõ yếu tính của Phật giáo là hòa nhập bản thể của mình vào cùng với dòng sinh mệnh của dân tộc nơi xứ sở mà mình thị hiện vào, tái sinh vào, hay đi đến đó cho mục đích chỉ cho chúng sanh tu tập giáo pháp vô ngã để đạt trí tuệ bình đẳng là phương tiện vượt thoát sinh tử.

Hành giả hòa nhập vào dòng đời thế gian, ngoài chư Phật, Bồ tát, các bậc Thánh, còn có những nam nữ phàm phu có qủa báo thiện nghiệp của kiếp trước là điều không thể tránh khỏi sự tái sanh vào đời. Cho nên chất liệu kiến tạo “Tính hòa nhập” là tâm từ bi, trí tuệ, và quả báo thiện nghiệp. Do vậy mà sự hòa nhập vào dòng đời thế gian của hàng phàm phu có quả báo thiện là đi tìm chân như trong định lý duyên khởi qua những hiện tượng sinh diệt của các pháp trong thực tại hiện hữu khi đôi chân bước trên đường đời của sự nghiệp mưu sinh cho bản thân, gia đình và con đường tu tập Phật pháp. Nếu không nói là hàng Bồ tát sơ địa đang có hành động tập tành tự cởi trói những sợi dây phiền não, nghiệp quả, báo chướng, và tà kiến để được thấy tánh không của các pháp. Thấy được tánh không của các pháp của hàng bồ tát sơ địa chưa phải là niết bàn thật, dù là niết bàn của bậc thánh, vẫn chưa đạt được. Vì Niết bàn được cắt nghiã là thế giới không tương quan không gian và thời gian, thật thanh tịnh, vắng lặng, tự tại vô ngại tuyệt đối. Nhưng trước khi bắt gặp Niết bàn Bồ tát, các bậc thánh và Niết bàn Phật, hành giả phàm phu phải trải qua nhiều giai đoạn bắt gặp phiền não, sinh tử, khổ đau trong cõi trần qua quá trình vô lượng kiếp trôi lăn giữa dòng duyên khởi trùng trùng. Tức là nuôi dưỡng sinh tử, phiền não, khổ đau trong lòng để làm chất liệu lý tưởng giải thoát sinh tử, vì Niết bàn không ly khai với sinh tử! Tìm thấy được sinh tử trong duyên khởi tức thì tìm thấy Niết bàn. Càng thấy Niết bàn càng thấy vô ngã. Càng thấy vô ngã tâm thức càng an vui, tự tại không vướng bận vào đâu cả. Và cũng từ tâm vô ngã, hành giả phàm phu tích cực hướng đến chúng sanh  bằng tình yêu xuất thế gian trên bước đường hành động lợi tha cho dân tộc và đạo pháp ngay tại xứ sở mình. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn làm người nam nhi tại cõi Ta bà thế giới này trong vô lượng kiếp, Ngài đã hòa nhập vào dòng đời thế gian trên cơ sở cứu khổ và lợi tha cho chúng sanh mà được chứng ngộ định lý duyên khởi, tức là tìm thấy bản thể các pháp là vô ngã. Nhưng sở dĩ có ngã là do nằm trong định lý duyên khởi mà có hình tướng sinh và diệt.

Cho nên sự hòa nhập vào dòng sinh mệnh thế gian của chư Phật, Bồ tát và các bậc thánh đều nhắm vào mục tiêu cứu khổ ách nạn, nói giáo pháp giải thoát cho chúng sanh, đúng như lời Đức Phật Thích Ca đã nói: “... Chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh vào Phật đạo, nên nói như thế”. Từ chỗ này cho chúng ta thấy rõ câu: “Vô sát bất hiện thân” (Không có chỗ nào mà chư Phật, Bồ tát, các bậc Thánh không hiện đến). Không phải sự hiện hữu của chư Phật, Bồ tát, các bậc Thánh vào thế gian bằng siêu hình, bằng tượng đồng, gỗ, đá, được thờ trên bàn. Mà sự hiện hữu ở đây là thân người thật bằng xương, thịt, máu huyết của cha mẹ, nên có cùng thân tướng, màu da, ngôn ngữ như cha mẹ mình thuộc dân tộc Ấn, Tây Tạng, Nhật, Việt, Pháp, hay Mỹ... khác biệt về thân tướng, màu da, ngôn ngữ, văn hóa, sắc phục... nhưng đồng một thể tánh Như Lai. Thể tánh Như Lai là yếu tính có năng lực hòa nhập vào dòng sinh mệnh của dân tộc mình. Nên khi lớn lên, ngoài sự nghiệp thế gian trên vận hành mưu sinh của bản thân, cho gia đình, còn có sự nghiệp chính của sở trường hạnh nguyện Bồ tát đạo của mình là hộ dân, hộ quốc, hộ đạo trên cơ sở phụng sự và phụng trì chánh pháp, được gọi là tinh thần dân tộc và đạo pháp.

Vì vậy mà những nhân vật trong tác phẩm Mối Tình Tất Đạt, một tác phẩm diễn lại Tích môn (sống tại cõi Ta bà trong vô lượng kiếp, kiếp nào cũng vừa cứu khổ chúng sanh, vừa tu học Phật pháp và phụng trì chánh pháp vào thế gian) của tiền thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người Việt Nam. Cho nên hai nhân vật chính trong truyện là chàng trai Tất Đạt, ý trung nhân của Tất Đạt, cho đến những nhân vật phụ là hai bên cha mẹ, họ hàng, bạn đạo của Tất Đạt đều là những người Phật tử Việt Nam có quy y Tam Bảo, có tu học Phật pháp và phụng trì chánh pháp vào đời một cách tích cực không mệt mỏi trong các tập thể cư sĩ, gia đình phật tử, thanh niên, sinh viên phật tử đúng nghiã “vô sát bất hiện thân” của chư Phật, Bồ tát, các bậc Thánh, và phàm phu có quả báo thiện vào các nước chúng sanh trên thế giới này một cách bình đẳng để chuyển hóa tâm vô minh cuả con người được có trí tuệ theo sở trường hạnh nguyện Bồ tát đạo của mình đúng theo quy luật “ở đâu có chúng sanh, ở đó có pháp phật hiện hữu”. Cho nên nói đến tinh thần yêu nước, thương nòi giống, chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, xây dựng đất nước và người dân trên các mặt vật chất, văn hóa, luân lý nhân bản, đạo đức Phật giáo...cũng như lời nói và những hành động đấu tranh chống lại tập đoàn các bạo quyền trên quê hương đang đưa dân tộc vào hố thẳm đói nghèo, gông cùm chết chóc và dốt nát là do cai trị dân bằng chế độ thực dân, chủ nghiã ngoại lai đen, đỏ... Mà một số người dân trong các giai cấp tại các quốc gia trên thế giới từ ngàn xưa và hiện nay đã và đang đứng lên làm nhiều hành động lợi tha như trên cho dân tộc mình. Là phải nói đến Như Lai Tạng trong tâm thức con người đang vươn lên nở hoa từ bi và trí tuệ. Chứ không phải do huyết thống của giòng họ, quyến thuộc cuả dân tộc đó. Vì huyết thống chỉ là một thứ sản phẩm của vô minh, nên nó sinh ra những hiện tượng bán nước cho các thế lực  ngoại lai xâm lăng để cầu vinh ở những con người dù cùng chung một quyến thuộc, một xứ sở, một tôn giáo, nhưng tâm thức họ là biểu hiện của ba loại chúng sanh A tu la, ngạ qủy và súc sanh.

San Diego, Mùa Xuân năm Nhâm Ngọ (2002)

 

 Le Bao Ky

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2010(Xem: 2464)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2223)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2184)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4300)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 50713)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3423)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 50815)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 6897)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 3413)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3073)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567