Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Anh tôi

07/05/201504:59(Xem: 4284)
Anh tôi



Anh toi_Nguyen Hanh
Anh tôi

 

 

Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!

Dù biết rằng cuộc đời là vô thường, con người sống phải chấp nhận tất cả mọi khổ đau nếu phải xảy ra cho mình, nhưng tôi vẫn bàng hoàng chới với và hụt hẫng vô cùng. Sinh ly còn cho người ta niềm hy vọng gặp lại nhưng tử biệt là mất nhau vĩnh viễn! Mỗi người ra đi là một con thuyền lẻ loi cô độc, còn người ở lại chịu đựng niềm đau gậm nhấm dần tâm hồn mình. Cách đó hai hôm, anh em tôi còn liên lạc e-mail với nhau, Anh còn báo cho tôi thêm nhiều tin vui, ai ngờ bây giờ anh em tôi không còn thấy mặt nhau nữa.

 

Ngày tôi mới một tuổi, Anh lên 3, chúng tôi không còn Mẹ. Cả đời tôi chưa bao giờ được kêu tiếng Mẹ, chưa được thấu hiểu lòng yêu thương của người Mẹ dành cho mình như thế nào? Tuổi thơ của anh em tôi đã chít vành khăn tang quá sớm để cuộc đời lao đao lận đận và hành trang vào đời quá ư đơn độc, cánh cửa hồn nhiên vô tư của tuổi thơ đã khép lại từ lâu.

Anh em tôi như hai con chim non ấp ủ nhau mà sống, những ngày thơ dại của chúng tôi không êm đềm thơ mộng và ấm êm như bao trẻ thơ khác, càng lớn lên tôi càng thấy thấm thía niềm đau mất Mẹ, có những lúc tan học đã không muốn về nhà, có những bữa cơm hòa lẫn nước mắt, vì vậy Anh tôi là bóng mát cho tôi nương tựa ấm êm cho những ngày thơ dại.

Thầy Nhất Hạnh đã từng viết:

„Lớn đến cách mấy mà mất Mẹ cũng như không lớn cũng thấy bơ vơ lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi“ thật đúng với hoàn cảnh của anh em tôi. Anh đã thương yêu chiều chuộng tôi hết lòng, tội nghiệp cho Anh, lúc nào bày trò chơi tôi cũng giành phần thắng cho mình, hễ thua là tôi la khóc om sòm. Nhớ lại mà thương Anh đứt ruột, lớn hơn tôi có 2 tuổi mà đã đóng vai như người Mẹ hiền, chăm sóc cho em từng chút, đem cả lòng thương yêu của mình để bảo bọc cho em.

 

Những ngày anh em tôi lang thang và buồn thảm nhất là những ngày đảo chánh Nhật. Ba tôi bị kẹt lại ở Quảng Nam, cả nhà dắt dìu nhau đi về Huế và sống trong cơ hàn túng thiếu. Trong thời gian này, cả nhà ăn toàn khoai lang, tội nghiệp nhất là Anh ăn toàn lá còn chừa củ khoai lại cho tôi. Anh em tôi phải đi hái rau, mót củi trên đồi thông. Buổi trưa ngồi trên đồi, nhìn qua bên kia sông làng Long Hồ im vắng với hàng cau xào xạc trong gió, nghe tiếng gà gáy xa xa mà nước mắt cứ trào ra. Mãi cho đến bây giờ, hằng mấy chục năm sau rồi nhưng dư âm tiếng gà gáy đó cứ còn vang vọng trong lòng tôi mãi mãi. Anh em tôi vẫn âm thầm cầu nguyện cho Ba tôi được trở về, cho anh em tôi được sống êm ấm trong vòng tay thương yêu chăm sóc của Cha như ngày nào.

Một chiều, trời nhá nhem tối, hai anh em tôi đang ngồi ăn cơm ngoài sân, gọi là cơm chứ độn toàn là mít non và sắn, lòng thầm ước mong có một phép lạ để đưa Ba tôi trở về và Ba tôi đã về thật.

Từ đó, anh em tôi được đi học trở lại, ngày không còn lê thê u ám nhưng nỗi trống vắng vì thiếu Mẹ vẫn còn đè nặng trong tâm tư của chúng tôi. Những lúc buồn Anh thường hay về nhà vườn của bác tôi ở Nguyệt Điều mang theo nỗi buồn thảm gậm nhấm thấu buốt tâm can. Rồi chúng tôi cũng phải lo học hành thi cử, Anh rất chăm học nhưng số phận của Anh lúc nào cũng lao đao lận đận, không được suông sẻ như tôi. Anh lại là người nhỏ con nhất trong các anh em nhưng tính tình hiền lành và thật thà chất phác nên ai cũng thương khi gần gũi.

Sau đó, chúng tôi được vào Sàigòn tiếp tục học, anh em vẫn ở gần nhau, vẫn chia xẻ ngọt bùi cho nhau như ngày nào. Rồi tôi cũng phải đi lấy chồng, vài năm sau Anh cũng lấy vợ. Cuộc đời tôi tương đối bằng phẳng hơn, Anh phải vào lính làm ở Quân Tiếp Vụ lo giữ tiền ăn của binh sĩ nhưng lại bị mất nên phải đền. Anh về ở Vũng Tàu, tôi lặn lội đi thăm, khi ấy Anh mới có đứa con đầu lòng. Cứ nhớ mãi đêm tôi ở lại, cháu bị sốt khóc suốt đêm, cả hai anh chị thay nhau ru hời ru hởi cho đến sáng. Tôi cũng không ngủ được vì xót xa cho sự không may của Anh, số tiền phải đền không phải nhỏ, đã vậy tiếng xe ngựa lóc cóc ngoài đường trong đêm khuya thanh vắng nghe càng não nuột thêm.

 

Rồi Anh được giải ngũ, ra đi dạy. Lúc đầu dạy ở trường Quế Sơn, Quảng Nam, sau về làm Tổng Giám Thị ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở Đà Nẵng. Tôi thường nhân dịp đi chấm thi để thăm Anh luôn, lúc nào Anh cũng cần cù lo tròn nhiệm vụ của mình nên đã đón nhận được nhiều lòng thương yêu của mọi người và đây cũng chính là giai đoạn ổn định và an nhàn nhất của cuộc đời Anh.

 

Những tưởng những ngày tháng kế tiếp vẫn êm đềm để đền bù cho những ngày lao đao lận đận, không ngờ sau 1975, gia đình Anh quá cực khổ gian truân. Lúc đầu còn ở tạm với gia đình tôi tại Sàigòn nhưng sau đó cả nhà phải dọn đi kinh tế mới, lấy sắn khoai làm bạn. Mỗi lần về thăm, tôi đã không cầm được nước mắt, khóc cho cuộc sống quá cơ cực lầm than của Anh. Ngày ngày vác cuốc với mo cơm độn sắn khoai để đi làm rẫy mà cả đời Anh có quen lao động tay chân bao giờ đâu! Nếu cứ kéo dài cuộc sống như vậy, làm sao dựng được tương lai cho con cái, cuối cùng Anh liều về Sàigòn mua hộ khẩu và mua được một căn nhà quá rẻ. Sự may mắn đã đến với Anh, từ đó con cái được học hành đến nơi đến chốn. Anh không phải lo chạy gạo từng bữa từng ngày nữa. Rồi dần dà 3 đứa con của Anh đã lập gia đình, có công ăn việc làm hẳn hoi, chỉ có cháu út vẫn thờ chủ nghĩa độc thân mà thôi.

Nhưng rồi bệnh tật lại đến, Anh bị cao đường cao mỡ, cần phải mổ tim nhưng bác sĩ lại ngại cho sức khỏe của Anh nên chưa dám mổ, để rồi qua một đêm bị tiêu chảy, Anh yếu dần, đưa vào bệnh viện chỉ có một ngày rồi Anh ra đi!

 

Anh đi như vậy thật ra cũng quá nhẹ nhàng chưa làm phiền đến vợ con, chưa là một gánh nặng cho gia đình. Tôi nghĩ lối đi này ai cũng mong ước mình cũng sẽ được như vậy nhưng với tuổi 73 thì Anh chưa đến nỗi quá già kia mà!

 

Cuộc sống vừa độ lượng vừa nghiệt ngã, không ai thoát ra được qui luật „sinh, lão, bệnh, tử“. Bây giờ tôi chỉ còn được một niềm an ủi là đã bảo lãnh Anh qua Đức du lịch trong 3 tháng.

Ngày tôi ra đi, tưởng rằng sẽ không bao giờ còn gặp lại được những người thân, tôi đã khóc hết nước mắt hôm chia tay cả gia đình, hình ảnh Anh tôi đứng dựa vào gốc cây đầu đường khóc như mưa khi đưa tiễn đã theo tôi suốt cả cuộc đời còn lại. Không ngờ có một ngày người Anh thân yêu còn chia xẻ được nỗi buồn vui của tôi trên xứ người.

 

Không làm sao diễn tả hết nỗi niềm xúc động khi đón Anh ở phi trường, hai anh em ôm nhau mừng rỡ nghẹn ngào, niềm vui hội ngộ vỡ òa trong trái tim. Những ngày đầu mới đến, Anh cứ ngỡ như đi vào một cõi đời mà không định được tên; cái gì cũng mới, cái gì cũng lạ, cũng xa hoa, cũng gần mình đó mà cũng thật xa. Những đêm nằm ngủ Anh cứ bảo không biết thực hay hư.

 

Qua xứ người, Anh cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, ngỡ ngàng trước cuộc sống quá ư thừa mứa của một đất nước văn minh giàu có, rất cảm phục tinh thần tự trọng cao độ của người dân. Rồi có những lúc Anh lại trầm tư, luôn luôn băn khoăn tự hỏi bao giờ đất nước mình sẽ được như đất nước người ta? Tôi thông cảm nỗi lòng của Anh nhưng chỉ im lặng vì tôi biết có lẽ cả 100 năm sau nữa, chưa chắc quê hương mình sẽ đuổi kịp.

 

Những ngày ở đây, tôi đã đưa Anh đi cùng khắp để đền bù xứng đáng những ngày lầm than vất vả mà Anh đã trải qua.

Anh lại còn qua Paris nữa, đã đứng dưới chân tháp Eiffel, đã nhìn được dòng sông Seine như Anh hằng mơ ước. Sông Seine với những gợn sóng nghiêng nghiêng giữa con tàu trắng bóng, lộng lẫy với hàng trăm ngọn đèn chớp sáng rực rỡ, với hàng chục chiếc cầu bắc qua sông chạy êm đềm bên nhà thờ Đức Bà; tất cả đã làm cho tâm hồn Anh ngây ngất.

 

Anh đã tận hưởng rong chơi, bạn bè và học trò cũ gặp lại Anh đã dành cho Anh những tiếp đón nồng hậu và đó cũng là những kỷ niệm cuối cùng đẹp nhất trong đời Anh.

Bây giờ Anh đang ở rất xa, đã trở về bên kia thế giới, cùng với cơn gió cô đơn đang men theo nằm dưới những cỏ cây sương khói vương đầy.

 

Thôi thì với tính tình đôn hậu hiền lành như Anh, thế nào linh hồn Anh cũng được tiêu diêu miền cực lạc và đó cũng là niềm mong ước của em.

 

Em phải cố gắng nhìn nhẹ nhàng mọi điều xảy đến cho mình và chấp nhận trong nụ cười phải không Anh?

 

Thế là Anh đã đi xa

Không một lời giã biệt

Với bạn bè, người thân quen biết

Lắm kẻ ngậm ngùi, khóc tiễn Anh"

 

(Thơ N.T. Vinh)

 

• Nguyên Hạnh HTD

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 51114)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
02/09/2010(Xem: 5592)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 2533)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2551)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2439)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4407)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 52904)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3520)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 51981)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567