Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Bây giờ

10/04/201512:12(Xem: 8943)
17. Bây giờ

 

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 
Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm



CHƯƠNG MƯỜI BẨY 
 

BÂY GIỜ 
  
Đã chín năm trôi qua từ lần đầu tiên tôi gặp Tenzin Palmo trong tòa lâu đài ở Tuscany và từ đó, tôi thâu lượm tài liệu viết lại câu chuyện đời Tenzin.  
  
Tenzin đã giảm bớt đi ánh sáng linh động rực rỡ nội tâm cô đã có từ lúc cô bắt đầu xuất động, mặc dù ánh mắt cô vẫn sáng ngời và tính cách cô vẫn thân thiện, cởi mở, và hoạt bát.  
  
Những năm tháng dài miệt mài đi giảng dạy không ngừng nghỉ đã hằn dấu chân trên nét mặt Tenzin. Thật là một Phật sự nặng nề, khó nhọc. Khi tôi viết quyển sách này, Tenzin đã quyên góp được một số tiền đủ để mua đất và đặt xây nền móng.  
  
Đối với người có cơ sở vững chắc mà làm được như vậy thì cũng đà thành công tốt đẹp rồi, huống chi đối với Tenzin, một phụ nữ không nhà không cửa, không nghề nghiệp, không một đồng xu dính túi, và cũng chẳng có một cơ quan từ thiện nào giúp đỡ mà xây dựng được như vậy thì quả là phi thường xuất sắc. Tức nhiên đó là một hành trình dài, thật dài Tenzin phải đi để quyên góp xây dựng Ni viện. Tenzin không hề nản chí, bực dọc, hay mất hy vọng vì Phật sự quan trọng này. Cô không bao giờ lộ ra vẻ mệt mỏi, chán nản cả. Cô cứ miệt mài làm việc và đi thuyết giảng không ngừng nghỉ. Cô cũng chẳng có một tham vọng cá nhân nào trong công cuộc này. Cô làm vì đó là một Phật sự nên làm, phải làm, vậy thôi.  
  
- "Cuộc đời tôi đặt trong tay Đức Phật, Pháp, và Tăng. Tôi đã tùy duyên xoay chuyển mọi tình thế thật tốt đẹp. Những gì cần thiết đối với tôi là phụng sự hạnh phúc của chúng sanh. Hãy để tôi hoàn thành bổn phận này, ngoài ra, tôi không cần gì cả. Hơn thế nữa, tôi khám phá ra rằng nếu tôi cố thúc đẩy mọi việc để sớm thành công thì tất cả lại đi sai bét. Cứ để cái gì tới sẽ tới, vạn sự tùy thuận duyên mà tới".  
  
Với niềm tin kiên cố và hoàn toàn vào chư Phật, Tenzin vững bước tiến tới, không e dè sợ sệt gì cả. Đi đến đâu, cô cũng được mọi người sẵn sàng giúp đỡ cô mọi mặt từ vật dụng cá nhân, chỗ ở, di chuyển, ăn uống, vé máy bay hay tiền bạc; tất cả những gì cô cần, cô đều được giúp đỡ chu đáo.  
  
Tenzin nói :  
  
- "Đời sống một vị tăng sĩ, không có một sự bảo đảm xã hội nào, có thể nói tùy thuộc vào lòng quảng đại của mọi người - nhưng trái ngược lại với ý nghĩ của một số người Tây Phương thiển cận, đó không phải là sự ăn bám mà đó là Đức tin. Ngay chúa Jesus cũng nói :"Các ngươi không cần nghĩ ngày mai các ngươi sẽ ăn gì và sẽ mặc gì."  
  
Chúng ta cần có một niềm tin vững chắc rằng nếu chúng ta tu hành đúng đắn, chúng ta sẽ không bao giờ chết đói cả, chúng ta sẽ được giúp đỡ không những chỉ là vật chất mà còn tất cả."  
  
Tenzin Palmo đã đứng vững giữa dòng đời xuôi ngược của cuối thế kỷ 20 này, không chao đao ngã nghiêng theo thời cuộc. Tenzin không sở hữu một vật gì đáng giá ngoại trừ mấy bộ y áo, vài quyển kinh sách, một túi ngủ du lịch, và vài ba thứ vật dụng cá nhân cần thiết. Có một lần Tenzin nổi hứng mua một cái gối nhỏ đắt tiền để kê dưới cô khi đi du lịch, nhưng chỉ một thời gian rất ngắn sau, cô đã đánh mất nó. Cô cười nói :  
  
 - "Tôi nghĩ rằng mất cái gối đó thật đúng, nếu không tôi chắc sẽ bám víu chấp giữ nó quá." Trương mục ngân hàng của Tenzin vẫn rỗng tuếch như từ hồi xưa đến giờ. Cô không bao giờ tơ hào một đồng xu những số tiền đóng góp để xây Ni viện, dù là dùng tạm đi đó đây thuyết giảng. Cô không hề quan tâm tới tiền bạc để lợi dưỡng cá nhân. Cô sẵn sàng mở bóp và dốc hết tiền (nếu có) cho những ai cần đến. Cô theo đuổi đời sống xuất gia mà cô đã lý tưởng và mơ ước, và cô quan niệm rằng sự Thiểu Dục Tri Túc chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc bình yên cho tâm trí.  
  
Đi du lịch vòng quanh một số nước với Tenzin, tôi đã thấy những nét tương phản tâm lý trên gương mặt Tenzin mà chúng ta không thể nào hiểu thấu được. Tenzin vẫn luôn hoạt bát, hòa đồng, giản dị khi tiếp xúc với quần chúng, nhưng đồng thời nhìn sâu vào mắt cô, chúng ta sẽ thấy như cô đang nhìn vào cõi xa xăm nào đó cuối tận chân trời ; nơi đó hình như quá xa và chúng ta chưa nhìn thấy được. Cô có thể đợi chờ người ta, những chuyến bay, những sự việc hằng giờ hoặc hằng ngày không cau có mệt nhọc, không phàn nàn phiền trách gì cả; nhưng mỗi khi Tenzin cần quyết đoán một việc gì, cô rất thẳng thắn và mạnh mẽ cương quyết bảo vệ lập trường của cô không lùi bước, ví dụ như cô cực lực khuyến khích mọi người không nên sát sanh ăn thịt, hay thở dài khi đề tài nói chuyện bỗng chuyển sang ngày Lễ Tạ Ơn Chúa với gà tây quay, hay khó chịu khi thấy cả một dãy sách dạy câu cá trưng bày một cách hãnh diện hợm hĩnh trên giá sách. Tuy nhiên, cá tánh đặc biệt nổi bật của Tenzin luôn luôn là thái độ thân thiện, cởi mở, hòa nhã, và không phân biệt thân sơ với tất cả mọi người. Cô không bao giờ lộ vẻ mệt mỏi hay buồn chán khi phải tiếp chuyện với ai quá lâu. Bạn bè của cô rất đông, và nếu người nào đó đã tiếp xúc với cô chỉ một lần thôi, họ cũng không bao giờ quên cô. Cô gần gũi thân mật ngay cả các em nhỏ.  
  
Tenzin vẫn thường liên lạc hoặc ghé thăm Khamtrul Rinpoche đời thứ 9 (thân tái sanh của Sư Phụ Tenzin, Khamtrul Rinpoche đời thứ 8) mỗi khi có dịp ghé về Tashi Jong, miền Bắc Ấn. Khamtrul Rinpoche đời thứ 9 bây giờ là một thiếu niên cường tráng, nổi bật, và hơi mắc cỡ. Tenzin dạy Khamtrul thiếu niên này tiếng Anh và tìm cách đưa vào thế giới cô đơn và khô khan của chàng Khamtrul Ripoche những tư tưởng phóng khoáng của Âu Mỹ. Bây giờ, người dẫn đường tâm linh cho Tenzin là các nữ thần Dakinis. Cô luôn cảm thấy có sợi dây vô hình liên hệ mật thiết giữa cô và các nữ thần Dakinis. Cô nói "Tôi luôn luôn được các ngài bảo vệ."  
  
Thời gian này cũng có nhiều sự kiện thay đổi trong Ni chúng Phật giáo. Từ năm 1993, khi Tenzin và các phụ nữ khác dự cuộc hội nghị Dharamsala và trình bày lên Đức Đạt Lai Lạt Ma những trường hợp kỳ thị, phân biệt về giới tính, nếp sống Ni chúng đã bắt đầu cải thiện đôi chút. Một phái đoàn Ni cô được mời đi du lịch khắp thế giới và các ni cô này đã tự trình bày những mạn đà la vẽ hình Nữ Thần Kalachakra bằng cát mầu để cổ vũ cho nền hòa bình thế giới - một công việc mà xưa kia chỉ có tăng sĩ mới được làm. Một ni viện mới Dolma Ling đã được xây cất tại Dharamsala và cho phép giới Ni được học nghệ thuật tranh luận về giáo pháp. Đó là một bước nhảy vọt rõ rệt cho Ni chúng vì ngày xưa môn học trí thức này chỉ có tăng sĩ mới được học và công khai tranh luận. Vào năm trước, các ni cô đã thu hết can đảm công khai thách đố tranh luận giáo pháp ngay tại tu viện của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trước sự hiện diện của đông đảo tăng sĩ. Các ni cô đứng đó, nhỏ bé, trẻ măng, và gương mặt rạng rỡ hồn nhiên, đập chân vỗ tay tranh luận theo cung cách của Phật giáo Tây tạng, và có một số quan sát viên người Âu Mỹ tham dự buổi tranh tài đó và họ đã nói là họ thấy các ni cô trẻ đó đã chảy nước mắt vì xúc động được lên tiếng cho chính mình; và rồi sự đòi hỏi được thụ giới Tỳ Khưu Ni cũng được tán thành chấp thuận. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gởi phái đoàn đi Đài Loan để học hỏi về truyền thống tu học của Ni chúng Trung Hoa, với hy vọng sẽ áp dụng được cho Ni giới Tây Tạng. Cuối cùng, sau 1000 năm, thời điểm giải phóng Ni chúng cũng đã đến rồi. Đã nhiều năm trôi qua những hình tượng của Tenzin Palmo người phụ nữ Tây Phương đầu tiên xuất gia và ẩn cư 12 năm trong động tuyết Hy Mã Lạp Sơn vẫn đậm nét và mãi mãi là hình ảnh lý tưởng trong lòng Ni chúng và mọi người trên thế giới. Tenzin Palmo sẽ mãi mãi là biểu tượng anh hùng và ngọn đuốc dẫn đường cho phụ nữ trí thức khắp nơi trên đường tìm về vùng đất tâm linh.  
  
Dự án của Tenzin, sau khi hoàn thành Ni viện, sẽ nhập thất trở lại ở một hang động, tuy nhiên, cô không thể trở về Lahoul được nữa. Cô đã quá già để có thể chịu đựng khí hậu và hoàn cảnh khắc nghiệt vùng núi cao trên 13,000 bộ ở dãy Hy Mã lạp Sơn; cô cũng không còn có thể mang vác trên vai 15 ký vật dụng như cô đã làm ngày xưa nữa. Tổ ấm trên núi của Tenzin giờ đã xa vời rồi, cô không thể tiếp tục được nữa; và từ ngày Tenzin xuất động vào năm 1988, cũng không có một ông tăng hay một ni cô nào dám lên đó ở nữa. Căn động bị hư hỏng, cánh cửa và cửa sổ đã tháo gỡ ra và mang xuống phố để dùng trong tu viện khác, và những hòn đá cũng theo gió cuốn bay về nơi chốn cũ. Quang cảnh căn động của Tenzin trở nên hoang tàn, cô tịch. Vài năm sau, căn động lại có sinh khí trở lại nhờ sự hiện diện của một ni cô người Đức, Edith Besh, đã tìm ra căn động của Tenzin và tu bổ trở lại. Edith làm thêm một căn phòng nhỏ, một góc bếp, và một cầu tiêu bên ngoài. Mặt tiền của căn động cùng được sửa sang lại. Nhưng Edith chỉ sống được có một năm trong động thôi. Bệnh ung thư của cô đã đến thời kỳ cuối cùng, và cô đã chết ở tu viện phía dưới thung lũng vào năm 43 tuổi. Những cư dân Lahoul đã nói rằng Edith khi mới tới Lahoul thì lên cơn sốt thật cao, nhưng sau 12 tháng sống ở động thất thì đã có phần bớt vật vả vì bệnh và sau đó cô đã chết trong yên ổn thoải mái. Một lần nữa, động thất đã chứng tỏ có sự mầu nhiệm xảy ra.  
  
Tenzin tâm sự là nơi nhập thất sau này của cô có thể sẽ là một căn nhà tranh nhỏ tại một nơi rất thanh tịnh, nhưng cũng không quá hẻo lánh hoang sơ. Có thể là một góc nhỏ trên mảnh đất của một vị thí chủ nào đó để không gặp khó khăn mỗi khi cần dùng vật liệu hay di chuyển. Nơi nhập thất đó có thể ở bất cứ nơi đâu nhưng chắc chắn không phải là Anh quốc.  
  
 - "Tôi vẫn không cảm thấy Anh quốc là quê hương, là tổ ấm của tôi. Tôi luôn luôn nghĩ là tổ ấm của tôi là phương Đông và tôi sẽ chết ở đó."  
  
Quê hương tâm linh của Tenzin đã được định hướng rõ rệt và cô cũng chỉ có một mục tiêu duy nhất "Chứng đắc Quả vị Giải Thoát trong hình tướng người nữ." 

Dịch xong ngày 28/9/99 

Thích nữ Minh Tâm 

Quý độc giả có thể viếng thăm trang nhà của Sư Bà Tenzin Palmo by clicking here

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3842)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3128)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2942)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2779)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3215)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2614)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4169)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3195)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3323)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]