Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Một hang động ẩn tu có cần thiết không

10/04/201512:11(Xem: 10720)
16. Một hang động ẩn tu có cần thiết không

 

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 
Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm

CHƯƠNG MƯỜI SÁU  

MỘT HANG ĐỘNG ẨN TU CÓ CẦN THIẾT KHÔNG? 

  
Khi Tenzin Palmo ẩn thân trong động tuyết để theo đuổi mục đích cầu đạo của cô, thì các phụ nữ Âu Mỹ khác đang bận rộn phong trào đấu tranh đòi quyền lợi cho phái nữ của riêng họ. Khi Tenzin xuất động, giới nữ cũng đã tạo được một số thành tích đáng kể, và đã tự tin rất nhiều, không còn e dè kiêng nể gì sự thống trị của phái nam hay tôn giáo.  
  
Những thời đại đã thay đổi nhanh chóng, cái cũ phải nhường bước cho cái mới. Vị trí người nữ trong Phật giáo cũng đã thay đổi và họ bắt đầu tìm hiểu tận cùng gốc rễ nguyên lý nền truyền thống cổ xưa ở Tây Tạng mà Tenzin đã noi theo một cách trung thành, và họ cũng bắt đầu đòi hỏi các hình tượng Phật cũng phải mang nét nữ nhiều hơn.  
  
Trong số những câu hỏi hóc búa của giới nữ đặt ra cho Tenzin, sự thắc mắc "Một hang động có cần thiết cho sự ẩn tu không?" là câu hỏi rất đặc biệt gây chú ý.  
  
Họ nghĩ là "Một hang động không tiện lợi cho phái nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ, và làm chủ gia đình. Khi người đàn ông có thể xuất ly khỏi gia đình, như Đức Phật đã cắt ái từ thân, dấn thân vào những chặng đường thiền định cô độc lâu dài để mong đạt được giác ngộ - thì người phụ nữ không thể làm được như vậy hoặc họ cùng không muốn làm như vậy hoặc họ cũng không muốn làm như vậy. Tuy nhiên, không thể kết án hay xem nhẹ người nữ như là một kẻ bị tật nguyền nếu họ không thể ẩn cư thiền định nơi núi rừng, hang thẳm. Người nữ, với thiên chức làm mẹ, đã tiếp tay tạo ra giống nòi, ngay cả Đức Phật, Chúa Jesus, hay các Thánh Nhân khác đều nhờ vào cơ thể người nữ mà hiện thân ra.  
  
Động thất, theo ý họ, chỉ là một mô hình lý tưởng để cầu tìm giác ngộ - Những người phụ nữ trí thức trong mọi lãnh vực đã lên tiếng nói những gì họ muốn. Họ cho rằng cả hai vấn đề tâm linh và gia đình đều quan trọng như nhau. Họ muốn thực tập các pháp môn bao gồm luôn cả trẻ con và gia đình. Họ cũng giới thiệu pháp môn trị liệu cảm xúc như là một môn pháp thiền định, và họ cho rằng nhà bếp cũng là một chỗ tốt để thiền quán đạt giác ngộ như là một thiền đường hay hang động Hy Mã Lạp Sơn xa xôi kia. Đó là sự cách mạng tư tưởng đã làm thay đổi bộ mặt Phật giáo.  
  
Tsultrim Allione, một phụ nữ người Mỹ, đi bước tiên phong cho phong trào cách mạng tư tưởng này. Bà đã xuất gia năm 1970 nhưng bốn năm sau đã hoàn tục, lấy chồng, và sanh con. Bà là tác giả cuốn "Women of Widsom", một trong những quyển sách đầu tiên nói về vị trí người nữ trong Phật giáo, và sau đó thành lập trung tâm thiền "Tara Mandala" ở Pagosa Springs, Colorado, nơi sản sinh ra nhiều người nữ trí thức, kinh nghiệm, và cấp tiến. Bà Allione là người phụ nữ đầu tiên đã kinh nghiệm cả hai mặt tu tập và đời sống gia đình bằng chính cuộc đời bà.  
  
- "Tôi đã hoàn tục bởi vì tôi là vị ni cô Phật giáo Tây Tạng duy nhất ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Tôi cảm thấy rất cô đơn, lẻ loi, và không nhận được sự trợ cấp dưỡng bảo vệ gì cả. Lúc đó, tôi mới 25 tuổi, sức sống đang tràn trề, sự khao khát tình dục đòi hỏi, và bắt đầu chán nếp sống độc thân cô đơn của đời tu sĩ. Vì thế, tôi hoàn tục và một năm sau, tôi trở thành một người mẹ và một nữ văn sĩ. Đối với tôi, sự quyết định đó thật đúng và tốt. Từ ý nghĩ muốn vượt qua được sự ganh tỵ, giận hờn hay tất cả những cảm xúc tư tưởng bi quan yếm thế, tôi lại bị những xúc cảm đó tạt trở lại vào mặt. Từ ý nghĩ muốn có được nhiều thì giờ cho riêng tôi, tôi lại chẳng được gì hết. Tôi nhận xét rằng, khoác chiếc áo nhà tu, tôi có cảm tưởng như được che chở khỏi suy nghĩ đến những cảm xúc đột biến thầm kín riêng tư - nhưng không, chúng vẫn trơ trơ nằm đó. Tôi phải nghiền ngẫm sâu hơn, tận cùng hơn lớp vỏ bên trong của năm món độc kia để thấy chúng là gì và học cách đối phó thẳng với chúng, không bao che hay trốn chạy chúng nữa. Vì thế, tôi quyết định hoàn tục để sống đúng với cảm xúc và con người thật của tôi. Nếu tôi vẫn còn là một ni cô, có lẽ tôi đã tự che dấu mình và kiêu căng ngã mạn cho là tôi đã vượt qua được tất cả."  
  
Tsultrim Allione, trong 5 năm sanh 4 người con (một đứa chết lúc còn bé). Bà đã tranh cãi về vấn đề gia đình và vai  
trò làm mẹ là một trở ngại lớn cho công cuộc khám phá tâm linh. Bà nói :  
  
- "Chúng ta phải tự hỏi mình là "Nhận thức tâm linh là gì?" Bản năng làm mẹ trong người nữ cũng mạnh và cần thiết như tình yêu và họ sẵn sàng hy sinh cá nhân. Sự nhận thức được định nghĩa bởi con người qua những sự kiện thăng trầm thay đổi. Chúng không phải là kinh nghiệm giác ngộ giải thoát. Người nữ cũng sẵn sàng xả ly những gì họ đang có. Đó là phẩm chất cao qúy của người nữ và để hiểu rõ về con người, chúng ta cần phải làm mẹ và làm một phụ nữ bình thường. Là một người mẹ, tôi đã dứt bỏ được ảo ảnh về cá nhân tôi. Tôi đã chọn cách thất bại như thế nào để sống đúng với cảm giác tư tưởng của chính tôi."  
  
Đối với bản thân Allione, bà cam đoan rằng một hang động không cần thiết cho việc tu tập. Bà nói :  
  
- "Tôi tin rằng người phụ nữ ở nhà cũng có thể giác ngộ được. Đó là điểm tối ưu của Mật Tông. Có một câu truyện về một phụ nữ giác ngộ khi gánh nước. Cô ta miên mật hành thiền ngay cả khi gánh nước hay làm bất cứ công chuyện gì. Một ngày kia, cô đang gánh nước về nhà, bỗng bị đứt dây thùng, nước đổ ào ra và cô hoát nhiên đại ngộ. Giáo lý thâm huyền của Mật Tông cũng đã được giới cư sĩ đạt được uyên áo chứ không phải chỉ có giới tăng sĩ mới thấu triệt được. Điều đó cho chúng ta thấy hai hệ thống tu sĩ và cư sĩ cũng có những khái niệm hay tư tưởng, lý tưởng khác nhau. Mỗi người nên tùy căn cơ của chính mình mà thực hành để đạt kết quả; cuộc đời tu sĩ quá tốt mà nếp sống gia đình cư sĩ cũng không phải quá dở."  
  
Yvonne Rand, một trong nhũng vị dạy thiền nổi tiếng người Mỹ, cũng đã nói lên tư tưởng của bà về đời sống một người cư sĩ. Yvonne cũng đã có lần mời Tenzin Palmo tham dự một cuộc họp cuối tuần tại trung tâm thiền của bà ở Muir Beach, California. Bà cũng nhận xét thấy những khó khăn trở ngại lớn nhất mà người phụ nữ phải đối phó với những ước vọng tâm linh. Trước khi thành lập trung tâm độc lập của riêng bà, Yvonne là chủ tịch Trung Tâm Thiền ở San Francisco, một địa vị mà bà cảm thấy như có đối kháng mâu thuẫn với vai trò làm mẹ của bà.  
  
- "Là phụ nữ, tôi cũng muốn được gánh vác nhiều trách nhiệm, nhưng tôi cảm thấy mọi người xem tôi như là người phụ thuộc, người thứ hai trong xã hội mà thôi. Người ta không cảm thông mấy cho vai trò một bà mẹ độc thân của tôi và tôi thường hay bị tẩy chay vì chưa đủ nghiêm túc khi thực hành công phu thiền định. Ví dụ như thật khó tin khi phải dậy sớm mỗi buổi sáng và đi tọa thiền ở các thiền đường thì phải để các con nhỏ của tôi một mình ở nhà. Tôi không thể nào yên tâm được nên dù cố định tâm để thiền quán cũng không được."  
  
Đúng ra Yvonne xác nhận là bà thực hành nhiều theo khoa tâm lý trị liệu của Nhật Bản hơn là Phật giáo, và bà nghĩ rằng căn nhà là chỗ thích hợp nhất để tu tập cho các nhóm cư sĩ tụ hội lại với nhau. Cuốc cùng, tôi nghĩ rằng dù dưới hình thức một người cư sĩ, một vị tăng sĩ, hay một bà nội trợ và ở bất cứ nơi đâu, tôi vẫn đều đặn tu tập như một tu sĩ ở trong thiền viện. Khi quán tưởng được như vậy, lần đầu tiên, tôi cảm thấy yên ổn và thư giãn được đầu óc."  
  
Khi được hỏi "Người phụ nữ có thể đạt được cảnh giới giác ngộ tối thượng không?" Yvonne trả lời :"Tôi không biết gì về giác ngộ giải thoát, nhưng tôi nghĩ người phụ nữ sẽ tiến được rất xa. Tôi kinh nghiệm được mùi vị giải thoát khi tôi bắt đầu nhận thức thực tại hiện hữu trong từng giây phút, tại đây, ngay trong lúc này, khi tôi không đeo hành lý nặng nề của ngày hôm qua, hay khi tôi ôm đồm cả hai, hôm qua và ngày mai.  
  
"Cái quan trọng nhất của sự tu tập là Miên mật hành trì, không gián đoạn. Nếu bạn đang thực hành một pháp môn nào, ví dụ như thực tập chánh niệm, bạn phải miên mật tu tập 12 lần trong 1 ngày thì mới thâu lượm được nhiều kết quả; hay bạn tập cười hàm tiếu, bạn nhích nhẹ đôi môi, cười, và giữ yên như vậy độ 3 hơi thở. Nếu tôi tập làm như vậy 6 lần hay hơn nữa mỗi ngày, trong vòng 3 ngày thôi, chắc chắn tôi sẽ cảm thấy có điều kỳ diệu xảy ra cho tôi, trong tôi, trong đầu óc và cơ thể tôi. Bạn có thể thực tập như vậy khi đứng chờ đợi người nào, khi phải giữ  
máy điện thoại, lúc ở tiệm bán thực, ở phi trường, hay dừng xe những ngã tư đường lúc đèn đỏ, v.v... "  
  
Những lời của bà Yvonne nói sao nghe giống lời của Tenzin Palmo đã trình bày về phương cách hành thiền.  
  
Yvonne tiếp tục "  
  
- "Có rất nhiều cách bạn có thể thực tập ở nhà. Bạn có thể thực tập kiên nhẫn hay sử dụng chuyển hóa những trở ngại vướng bận một cách khéo léo như thầy các bạn đã làm. Trước kia, tôi thường ngồi bên cạnh những người đang hấp hối, và sau những giờ quán niệm Vô Thường, tôi trở thành một với xác chết. Đó là một phương pháp tu học kỳ diệu. Tôi không những hiểu được về lý vô thường của vạn vật và sợi dây liên hệ giữa hơi thở và tâm thức, mà tôi còn hiểu rằng Chết và Sống có chiều liên quan với nhau - Ta sống như thế nào, ta chết như thế ấy. Sống vui vẻ, tốt đẹp thì Chết an ổn, thoải mái. (living well, dying well).  
  
"Nếu bạn đã chọn được những pháp môn thích hợp nào, bạn thực hành theo đó trong vài năm, bạn sẽ thấu đạt được toàn vẹn ý nghĩa của những pháp môn đó và bạn cũng không cần áp dụng những pháp môn mới cho đến khi bạn thực hành một cách viên mãn những pháp môn đã chọn lựa. Một trong những chướng ngại tâm lý của người Mỹ là họ sống không khiêm tốn, giản dị. Họ tham lam, hấp tấp hưởng thụ và mong muốn chiếm đoạt tất cả cùng một lúc."  
  
Không phải chỉ có giới nữ mới đặt ra câu hỏi hóc búa đó, mà ngay cả giới nam cũng e dè lên tiếng trả lời câu hỏi "Động thất ẩn tu có cần thiết không?"  
  
Một vị thầy dạy về thiền Minh Sát, Jack Knornfield, một trong những vị thiền sư nổi tiếng người Mỹ, đã trình bày về phương cách, khái niệm "nhập thất ngắn hạn (vài tháng vào thất, vài tháng ra thất) như là một giải pháp thay thế cho những ai muốn nhập thất ở những nơi u tịch thanh nhã. Ông ta cho rằng sự nhập thất quá lâu sẽ tạo ra những trạng thái tâm lý bất ổn, không thích ứng cho hành giả một khi người đó muốn hòa nhập lại xã hội. Tâm lý những người Âu Mỹ không thể thích hợp được với những pháp môn tu tập ẩn cư xuất thế như vậy, và sự nhập thất dài hạn ( theo ông nghiên cứu qua vài người tu tập) đã dẫn tới sự khủng hoảng tâm lý và lãnh đạm xa lánh người đời.  
  
— Anh quốc, một vị giáo sư Phật học nổi tiếng, Stephen Bachelor, Khoa trưởng Phật học và khoa Thông Tin Thời Đại ở đại học Sharpham, đã đồng ý với nhận xét của Jack Knornfield. Ông này đã xuất gia hơn 10 năm theo truyền thống Thiền Phật giáo trước khi trở thành một trong những người Phật tử theo chủ nghĩa hoài nghi nổi tiếng, thường đặt những câu hỏi về những nguyên lý cơ bản giáo lý như là Thuyết Tái Sanh, Hóa Thân, v.v... Là bạn của Tenzin Palmo, ông ta cũng có ý kiến phê bình về vấn đề nhập thất ở hang động. 

-"Nhập thất ở một nơi cô tịch thanh vắng ảnh hưởng rất nhiều đến tánh khí vị hành giả. Tenzin Palmo là một trong những người ngoại lệ có kinh nghiệm cao, sống thực, và khi cô nhập thế trở lại, cô không bị ức chế hay trở ngại gì. Cô rất thân thiện, cởi mở, và hòa hợp ngay được với mọi người; chứ không giống như một số các vị hành giả khác nhập thất quá lâu, có khuynh hướng hướng nội hoàn toàn và xa lánh thế tục. Tôi nghĩ tới vài trường hợp khác của những người không có được cơ sở tâm lý vững chắc và những cuộc nhập thất quá dài sẽ đưa đến hậu quả khủng hoảng tâm lý. Họ nên đi tìm câu trả lời về trạng thái bất an và lãnh đạm đó, và khóa chặt chúng nó lại hơn là để chúng nó vượt quá trớn phạm vi tâm lý. Chúng ta cần phải buộc dây những cảm xúc lại làm sao để chúng ta có thể đối phó được với sự cô đơn, u tịch của nội tâm lẫn ngoại cảnh."  
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2013(Xem: 10735)
Cận cảnh tượng cụ Nguyễn Du bằng gỗ gù hương khủng ở Việt Nam
01/01/2013(Xem: 5596)
Ngày tôi còn học Y Khoa, ở khu Sản khoa thời đó ở miền Nam Việt Nam chỉ cho phép làm “abortion therapeutique”, với chữ ký cuả 3 vị Thầy đồng ý phải bỏ thai nhi để cứu mạng sản phụ. Và đây là chuyện rắc rối mà tôi đã gặp phải sau 1975 Anh chị M., đối với tôi là một cặp vợ chồng có tư cách rất đáng qúy, tôi luôn xem hai người như anh chị ruột của mình. Anh M., một Phật tử thuần thành, lớn hơn tôi 10 tuổi, tốt nghiệp đại học bên Pháp, là một người sống nhiệt thành vì lý tưởng, lập gia đình trễ, từng giữ chức vụ khá lớn thời Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1980, khi mới ở tù cộng sản ra, tôi là người đưa chị M. đến nhà thương sanh con gái đầu lòng – cháu Phương Thanh (tên đã được thay đổi, không phải tên thật)
28/11/2012(Xem: 6937)
Nam Tuyền chém mèo (Nam Tuyền trảm miêu)[1]. 南泉斬猫 Bản tắc: Hòa thượng Nam Tuyền[2] nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói: -Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi. Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo. Tôi hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng. Nam Tuyền thấy thế mới bảo: -Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết.
23/11/2012(Xem: 3297)
Tôi đang loay hoay quét mạng nhện trên trần nhà, chuẩn bị một cuộc tổng vệ sinh nhà cửa để đón cái Tết cổ truyền, chào mừng năm mới theo lệnh của cha. Út Huy đi học về lúc ấy, mặt chằm quằm một đống, liệng chiếc cặp lên chiếc ghế salon... rồi ngồi phịch xuống kế bên, thở dài nghe não ruột. Tôi ngưng tay chổi ngó nó từ đầu tới chân. Nó lấm la lấm lét nhìn tôi, lúng búng: “Anh Ba... anh Ba...” Đưa mắt nhìn nghi ngại, tôi bắt gặp ngay chuyện không vui. Hơi lo, tôi làm bộ hỏi: "Thì tao là anh Ba đây, có gì là lạ đâu? Mày sao vậy? Sao mà... như bị mất hồn vậy?” Chừng như thằng nhóc chỉ chờ tôi hỏi vậy, nói ngay: “Lão thầy đánh em, anh Ba à!” Tay nó xoa lấy mông, nước mắt lưng tròng.
09/11/2012(Xem: 6104)
Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng. Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
01/11/2012(Xem: 14545)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
01/11/2012(Xem: 13745)
Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật"! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!
17/10/2012(Xem: 17243)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
10/10/2012(Xem: 11034)
Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẻ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.
21/09/2012(Xem: 4181)
Vừa rẽ vào đường hẻm nhỏ, chỉ một đoạn ngắn, chiếc xe Honda ngừng lại, tắt máy. - Đây rồi. Lữ khách ngồi sau xe bước xuống, lập lại lời người lái xe: - Đây rồi! Có phải đây là nơi chốn đã đến, đã biết đâu, mà sao xác nhận như đã từng!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]