Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hình ảnh hai cuộc đời: Mục Kiền Liên và Liên Hoa Sắc

25/07/201419:40(Xem: 11993)
Hình ảnh hai cuộc đời: Mục Kiền Liên và Liên Hoa Sắc

Bo_Tat_Muc_Kien_Lien

 

Mùa An Cư Kiết Hạ lại về, đặc biệt lần này Giáo Hội Úc Châu sẽ tổ chức kỳ thứ 15 tại Tu Viện Quảng Đức của thành phố Melbourne đáng yêu, với số người Việt đông vào hạng nhất nhì của xứ Úc. Đấy cũng là mùa Vu Lan, mùa báo hiếu với một biểu tượng không thể thiếu là Ngài đại hiếu Mục Kiền Liên. Ngài là ai mà nổi tiếng đến thế! Từ già đến trẻ, ai cũng thuộc điển tích “Mục Liên vào địa ngục đưa cơm cho mẹ, nhưng than ơi cơm hóa than“, đã biết bao nhạc sĩ phổ nhạc và biết bao soạn giả dàn dựng những vở tuồng cải lương về lòng hiếu thảo của Ngài đã lấy bao nước mắt người xem.

 

Ngài là một trong số Mười Đại Đệ Tử của Đức Phật, đã chứng thánh quả A La Hán, một quả vị thánh cuối cùng với thật sự giải thoát và giác ngộ viên mãn. Phẩm hiệu của Ngài là “Thần thông đệ nhất“ bên phái nam và trong Kinh Pháp Hoa phẩm thứ 6, Đức Phật đã thọ ký cho Ngài danh hiệu “Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật“.

 

Một bậc tài hoa xuất chúng, trí tuệ phi phàm như thế lại có một bà mẹ tính tình độc ác, tâm địa bỏn xẻn như bà Thanh Đề quả là điều lạ. Nhưng theo cái nhìn của một cư sĩ Phật Giáo như tôi, biết đâu bà mẹ của Ngài chẳng là một Bồ Tát nghịch duyên giúp cho Ngài phát huy được lòng hiếu thảo đến cùng tận. Vì một người không có phước báu sẽ chẳng sinh ra trong gia đình giàu có, quyền quý và hạ sinh được một thánh nhân như ngài Mục Kiền Liên.

 

Thần thông bậc nhất của Ngài có cứu được mẹ thoát khỏi cảnh đọa đầy nơi địa ngục không? Xin thưa là hoàn toàn không, vì chẳng ai có thể hoán chuyển được luật nhân quả do mình gây ra, đòi xí xóa tội lỗi đâu thể dễ dàng. Trừ phi chính mình thành tâm sám hối, làm nhiều việc lành để xóa mờ các tội lỗi xưa, họa may tội mới tiêu tan. Nhưng ngài Mục Kiền Liên gặp được duyên may thưa cùng Đức Phật nhân Mùa An Cư Kiết Hạ của các Chư Tăng, nhờ lực đẩy của cả Tăng đoàn và lòng ăn năn sám hối của bà Thanh Đề, mới cứu bà thoát khỏi cảnh giới địa ngục khổ đau.

 

Lần thứ hai trong đời Ngài, bốn chữ “Thần thông bậc nhất“ cũng trở thành vô dụng, khi Ngài biết được cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai dòng họ vua chúa, một mối thù giai cấp làm bẽ mặt vị vua trẻ mới lên ngôi. Vì muốn cứu năm trăm hoàng thân quốc thích của dòng họ Thích Ca trước họa thảm sát của vua Lưu Ly, Ngài đem họ nhốt vào trong hồ lô đợi ngày tan binh biến sẽ thả ra. Nhưng khi mở nắp hồ lô, tất cả mọi người đều tan biến thành máu. Họ phải trả theo luật nhân quả, cho những gì họ đã gây ra, có một thời nào đó thay vì đem Công Chúa dòng họ Thích Ca gả cho Vua Ba Tư Nặc, lại tráo người tỳ nữ là Mạc Lợi Phu nhân.

 

Trong câu truyện cổ Phật Giáo này, tôi thề không hiểu được! Tại sao Mạc Lợi Phu nhân là người cư sĩ Phật giáo thuần thành nhất của Đức Phật, đã hạ sinh được một Thắng Man Phu nhân với những giáo lý về Phật thừa số một trong hàng Bồ Tát tại gia, lại để cho cậu con trai lên ngôi với mối thù không đáng gây nên thảm khốc như vậy được.

 

Lần thứ ba trong đời ngài Mục Kiền Liên và cũng là lần cuối cùng, bốn chữ “Thần thông bậc nhất“ cũng không cứu được mạng sống của Ngài. Bọn người thuộc môn phái “Lõa Thể“ vốn đã thù ghét tài thuyết pháp thần sầu của Ngài, đã thu phục được gần hết đệ tử của họ theo ông cụ Cù Đàm, hôm nay đã đến lúc nghiệp quả nhiều đời đổ xuống, họ cầm gậy gỗ, gậy chống đập chết Ngài ngay trong lúc đang hoằng dương chánh Pháp. Ngài không dùng thần thông để tránh nghiệp báo, sẵn sàng xả bỏ xác thân ngay trong giờ phút vinh quang của một môn đồ truyền giáo.

 

Từ đó suy ra, pháp căn bản của sự giải thoát sinh tử không phải là thần thông và thần thông cũng không thể thắng được nghiệp chướng. Ngài Mục Kiền Liên vì tuyên dương giáo pháp của Như Lai mà tuẩn nạn, đó là việc phước tốt lành nhất cho một môn đồ truyền giáo.

 

Đấy là hình ảnh một cuộc đời vị thánh Tăng có công đức cao dầy mới cảm hóa được một cuộc đời khác với nghiệp chướng sâu nặng như nàng Liên Hoa Sắc, từ vũng bùn đi lên như một đóa Sen.

 

Đúng như tên gọi, nàng Liên Hoa Sắc là một tuyệt thế giai nhân, có một nhan sắc diễm lệ đẹp như đóa sen long lanh trong buổi sương mai. Thế nhưng cuộc đời nàng khá nghiệt ngã, được gắn liền với câu tang thương cùng tận: “Chồng chung với mẹ và chia chồng với con“, rồi sau đó còn được mang danh hiệu “dâm nữ“ phá hoại gia cang biết bao gia đình và làm tán gia bại sản cái bọn đàn ông háo sắc si mê nàng, vẫn chưa đủ nàng còn có ý đồ quyến rũ cả…

 

Sau đây là cuộc đời ly kỳ của nàng Liên Hoa Sắc đã làm tốn bao giấy mực của người đời, vì tài liệu thu thập trong internet qua sự quản lý của ông Google, nên cũng có điểm nghịch lý làm người viết phải chọn lựa xem nàng Liên Hoa Sắc phải chung chồng với mẹ ruột hay mẹ chồng. Chi tiết nhỏ này khá quan trọng cho “lời bàn Mao Tôn Cương“ của người viết.

 

Nàng là con gái yêu của một vị trưởng giả thành Taxila, sống cùng thời với Đức Phật Thích Ca. Dĩ nhiên nàng được ăn học tử tế như bao cô gái khuê các khác, rồi đến năm mười sáu tuổi thì được cha gả cho một anh chàng đẹp trai cân xứng và hạ sanh được một bé gái xinh xắn giống như mẹ. Cuộc đời như nở hoa ấy bỗng đất bằng dậy sóng như lời thơ của thi sĩ Thái Bá Tân trong bài “Chuyện nàng Liên Hoa Sắc“:

Chẳng bao lâu bố chết.

Mẹ còn trẻ và xinh.

Nên thằng chồng đồi bại.

Quyến rũ bà, vô tình.

 

Nàng trở thành đầy tớ.

Của mẹ và thằng chồng.

Một hôm, quá phẫn uất.

Nàng bỏ đi, tay không.

 

Thôi thế là hết! Một chuỗi ứng biến của nhân quả đã bắt đầu. Nếu cho rằng cái nghiệp của nàng đã mang từ vô thỉ đến hôm nay phải trả quả, tới đoạn này có thể chấp nhận được vì nàng vẫn vô tội. Nhưng hành động bỏ rơi người con gái mình mang nặng đẻ đau, trốn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con gái, để đưa đến tình trạng phải chia chồng với con về sau này có thể được ngăn ngừa, vì nếu biết được nguyên nhân sẽ tu tập để chuyển nghiệp, làm nhiều nghiệp lành để cải nghiệp xấu. Nhưng rất tiếc nàng Liên Hoa Sắc được thừa hưởng nhiều “gen“ di truyền của mẹ nàng, vừa đẹp lại vừa dâm nên đã tạo thêm ra rất nhiều nghiệp chướng mới.

 

Câu nói vu vơ của người đời về số phận như “Giày dép còn có số huống chi con người“ hoàn toàn không chấp nhận vì hiểu sai luật nhân quả. Đừng ngồi thụ động ca “Liên khúc nghèo“ rồi bó tay, mà hãy hỏi kiếp trước ta đã làm gì để bây giờ ta phải trắng tay. Trở lại câu chuyện của nàng Liên Hoa Sắc tập 2, thế rồi nàng đi lang thang như bài hát “Ôi, ta buồn ta đi lang thang bởi vì ai?“, để rồi cuối cùng đến thành Ba La Nại kiếm sống qua ngày. Thời gian sau nàng gặp được một ông trưởng giả giàu sang, yêu thương và cưới nàng làm vợ chánh thất. Họ sống rất hạnh phúc trong khoảng mười năm, rồi nghiệp quả lại giáng xuống đầu nàng một lần nữa khi chồng nàng sau thời gian dài đi buôn bán phương xa, đã mang về một người tỳ thiếp trẻ mà ông đã bỏ rất nhiều tiền ra mua. Nàng cũng rất rộng lượng sẵn sàng đón nhận người vợ lẽ của chồng, nhưng oan nghiệt thay ngay lần đầu gặp mặt nàng đã nhận ra cô gái trẻ chính là đứa con gái bị bỏ rơi của nàng. Sau nhiều đêm than trời trách đất cũng chẳng ăn thua, nàng lặng lẽ bỏ nhà ra đi với mối hận đời, hận tình và hận luôn cả người. Thế thì phải làm sao đây? Với sắc đẹp trời cho, nàng trả thù đời bằng cách làm mỹ nữ, bắt các chàng “đem ngàn vàng đổi lấy trận cười thâu đêm“. Nhan sắc cùng tên của nàng vang dội khắp vùng, đến với nàng phải có ít nhất năm trăm đồng tiền vàng trở lên. Biết bao gia đình tan nát, biết bao kẻ tình si phải làm con thiêu thân đâm đầu vào lửa nhưng vẫn hiên ngang bước vào.

Đến đây nàng đã thỏa mãn chưa? Làm sao hạnh phúc được khi xây dựng trên cơ sở của sự khổ đau và lòng dục vọng. Càng ngày nàng càng lún sâu vào lớp bùn đen của xã hội, thế mà đôi khi nàng cũng cảm thấy chán cái bọn đàn ông trần tục này, chê luôn cả vòng vàng của họ. Nàng mơ tưởng đến các thầy trẻ trong phái đoàn khất sĩ của đức Thế Tôn, hình ảnh của những người tu mới thoát tục làm sao. Hôm ấy nàng mang thực phẩm ra định đón đường một vị thầy tu, trước để cúng dường sau dùng sắc đẹp mê hoặc họ để thỏa mãn ước muốn trả thù đàn ông của mình.

Nhưng định mệnh đã an bài, nàng gặp ngay Thầy Mục Kiền Liên, một đóa sen thần thông đệ nhất, tay cầm bình bát đang lững thững bước về hướng nàng. Đóa Sen rực lửa khi thấy diện mạo thoát trần của Thầy đã lảo đảo lẫn chao đao, làm sao nàng chống trả nổi vài chiêu Pháp của thầy. Cuối cùng nàng tỉnh ngộ, lẽo đẽo theo Thầy đến gặp đức Thế Tôn xin xuống tóc đi tu. Nhưng trên đường đi nàng cũng còn luyến tiếc cuộc đời thế tục, khi ngồi bên dòng suối nghiêng mình ngắm dung nhan mình vẫn còn quá đẹp, nàng muốn quay về không đến gặp Thế Tôn. Nhưng Như Lai với thiên nhãn đã đoán được ý nàng, muốn hóa độ cho nàng nên biến thành một cô gái trẻ và đẹp hơn nàng đến lân la làm quen. Chỉ một vài giây sau cô gái than mệt và dựa vào chân nàng nằm ngủ rồi tắt thở. Một lát sau thân thể cô gái đẹp đã biến dạng một cách đáng sợ, da thịt nhăn nheo, dòi bọ rúc rỉa thật kinh hãi. Nàng chợt nhận ra hai chữ vô thường và vội vã đứng dậy đi một mạch đến chỗ Thế Tôn.

Nàng Liên Hoa Sắc tu hành rất tinh tấn, chứng nhiều quả vị cao cả và có tài thuyết pháp uyên bác trong hàng Ni chúng.

Đoạn cuối kết thúc một cách nhanh chóng và quá “Happy end“ cho một câu truyện cổ Phật Giáo, hình ảnh hai cuộc đời của hai nhân vật có nhiều điểm tương đồng và cũng nhiều điểm tương phản. Họ là hai Đại đệ tử của Đức Phật đã chứng quả vị A La Hán, có thần thông bậc nhất và có tài thuyết Pháp, một bên nhất trong hàng Tăng chúng và bên kia nhất trong hàng Ni chúng. Cái điểm tương đồng đáng nói ở đây là cả hai đều phải chịu trả quả nghiệp báo trong đời hiện tại cho dù có là thần thông đệ nhất, một người đầu đời và một người cuối đời.

Câu truyện nàng Liên Hoa Sắc đến đây đã được sang trang thành câu truyện của Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc. Nhờ chứng quả vị A La Hán và có thần thông Bà đã thoát được bao khổ ách do những tàn dư tích lũy của quá khứ như cái nhan sắc xinh đẹp cố hữu của mình, chỉ là mục tiêu cho những tay háo sắc làm càng như cái tên Bà La Môn chui xuống gầm giường rình rập hay tên thương gia si tình thường chờ Bà cầm bình bát đi qua để cúng dường rồi giở trò tán tỉnh. Nhờ có thần thông Bà đã bay lên cao và về thưa trình cùng đức Thế Tôn, vì tâm của Bà lúc ấy như lưới sắt nung đỏ rực áp vào thân nên không có tội. Cũng do từ những nguyên nhân bảo vệ sự an toàn của các Tỳ kheo ni sống ở nơi không yên ổn và đi khất thực một mình, Đức Phật đã chế ra giới luật đi hai người và lập tịnh xá cho Tỳ kheo ni.

Qua hai câu truyện thần kỳ có thật của hai Đại đệ tử của Đức Phật kể trên, ta có thể rút ra một nguyên lý: “cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc“.

 

Hoa Lan - Thiện Giới.

Mùa Vu Lan 2014.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4649)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43776)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4381)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4229)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6348)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4616)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4027)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24930)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24001)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]