Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dì Vãi Chùa Tôi

10/06/201418:35(Xem: 8245)
Dì Vãi Chùa Tôi

Minh hoa bai viet 4DÌ VÃI CHÙA TÔI


Hai dì vãi chùa tôi tuổi đời đều đã trên 70. Về sự kính Ôn, trọng thầy, thương chú và đùm bọc điệu hai dì như nhau. Về sự siêng năng, chịu khó, tiết kiệm, giữ của cho chùa hai dì bằng nhau. Về vóc hình nhỏ nhắn hai dì giống nhau. Về chiều cao khiêm tốn hai dì ngang nhau. Thời Ôn (cố) còn sống, có mụ nhà quê lâu lâu mới lên thành phố tìm đến viếng chùa rồi gặp Ôn trú trì, sau khi đảnh lễ, mụ nói một câu tỉnh rụi về hai dì vãi chùa tôi: Ôn có “cặp sanh đôi” trông vui mắt, hí.

Tôi đã cất công tra cứu từ “dì vãi” để giải thích công việc của “cặp sanh đôi” chùa tôi, nhưng ngoài những chữ có như không có “Dì vãi là người giúp việc trong chùa nhưng không xuất gia”, còn thì không tìm được gì khác. Tôi tìm đến hai dì lân la hỏi chuyện công việc, chỉ nhận được câu trả lời có cũng như không: “Ốt dột! Nấu cơm, vậy thôi.”. Chữ nghĩa không ghi, người làm không nói, thực tế lại sinh động, chân thật, nghĩa tình; chỉ còn cách quan sát việc làm hằng ngày của hai dì để mô tả hai từ “dì vãi”. Nhưng nếu chỉ quan sát bằng mắt e rằng chưa đủ, mà trái tim và cái đầu của chúng ta cũng phải mở toang ra.

Chuông chùa vang lên lúc 3 giờ 30 sáng, đèn nhà bếp đã sáng tự bao giờ. Lúc này nước đã được dì vãi nấu sôi và đổ vào bình thủy để chú thị giả pha trà hầu Ôn. Đoán chừng Ôn vừa xong chén trà thứ ba, dì liền bước thấp bước cao đi từ nhà bếp lên nhà Tổ thưa vài câu, câu gì? Lúc nhắc Ôn hai ngày nữa chùa có hiệp Kỵ, và lắng nghe Ôn dạy chuẩn bị chợ búa phục vụ cho bao nhiêu người; bữa dì thưa có người cúng dường gạo, dầu, tương, muối…, để Ôn hồi hướng công đức cho họ. Có hôm dì lên chỉ để cầm cái ly Ôn vừa uống trà xong xuống rửa, vậy thôi. Chỉ vài câu thưa của dì vải, Ôn nắm được chuyện hậu cần của chùa và nội tình nhà bếp trước khi lên chánh điện công phu khuya. Chân của dì bị giãn tĩnh mạch, sưng vù, đi lại rất khó khăn. Thế mà dù thời tiết nào dì cũng lê đôi chân lên những bậc cầu thang lúc trời còn chưa tỏ, thưa gởi vài câu rồi xuống.

Câu kinh đầu tiên trên chánh điện ngân nga cũng là lúc ở nhà bếp dì bắt tay chuẩn bị buổi sáng cho Ôn. Nếu sáng nay dì nấu cháo Màu thì trên mặt phản sẽ có vài hộp nhựa nhỏ bằng lòng bàn tay, dì đựng gì trong đó? hộp này đựng nhiều loại đậu đủ màu sắc đã bóc vỏ làm sạch; hộp kia đựng đậu phụ và chả phù chúc được cắt 2 cm vuông; hộp nọ đựng cà rốt, khoai tây, su su cắt giống hạt lựu; toàn bộ dì đã sẵn sàng từ tối hôm qua, bây giờ chỉ còn cho gạo vào nấu thành món cháo vừa đẹp, vừa sạch vừa bổ dưỡng. Trong khi chờ gạo nhừ, dì quay qua chuẩn bị mâm. Từng cái chén, thố, dĩa, đũa, muỗng được dì lau cẩn thận. Biết Ôn thích ăn cay, dì không quên cắt vài trái ớt, thêm miếng chanh và chén nhỏ nước tương; tất cả được dì sắp xếp vào mâm một cách chu đáo. Tiếng tụng kinh chấm dứt, nồi cháo Màu cũng vừa chín tới, nhưng dì vẫn để hâm trên bếp, dì canh giờ. Nếu mùa hè, lo người đến chùa làm việc với Ôn sớm dì nhờ thị giả bưng mâm hầu Ôn lúc 6 giờ; nếu mùa Đông dì biết khách thường đến muộn, dì dọn trễ hơn 15 phút. Có ngày, mới dứt thời kinh khuya Ôn nhắn “dọn sớm Ôn đi xa có việc!”, chẳng biết dì biến hóa cách chi mà Ôn vẫn no bụng ấm lòng trước khi đi.
Minh hoa bai viet 5

Trong lúc dì này lo cho Ôn thì dì kia lo cho Tăng chúng. Việc đầu tiên là dì lặt và rửa một bó lớn chè tươi, nấu xong nồi nước chè trước khi thời kinh khuya kết thúc để chúng dùng nguyên ngày. Tiếp theo, dì lục hết tủ, nồi, xem thức ăn chiều qua còn sót lại gì không? nếu còn, thức ăn hoặc cơm nguội sẽ được dì hâm nóng, dì lo chúng bị lạnh bụng. Gặp lúc chùa có chút rau củ và dầu (sót lại của ngày kỵ hôm trước), dì sài sang bằng cách cắt nhỏ rau củ, khử chút dầu với boa rô thơm lừng rồi bỏ cơm nguội vô chiên mời chúng một bữa no nê. Cũng có bữa nhà bếp trống trơn đành mì gói muôn thuở, nhưng dì cũng ráng quơ tay cho có chút rau tươi để bữa sáng của chúng được mát ruột. Khi trời sáng tỏ cũng là lúc Ôn làm Phật sự, thầy đi dạy, chú đi học, lúc này “cặp sanh đôi” chùa tôi gom những gì còn thừa của Tăng chúng lót dạ qua loa cho xong buổi sáng.

Không có bản mô tả công việc như nhân viên doanh nghiệp, cũng không có chuyên viên xây dựng quy trình ISO, thế nhưng mọi việc hai dì làm đều nhịp nhàng và hợp lý. Lúc dì này rửa chén, dọn dẹp bếp núc, cũng là lúc dì kia xách giỏ đi chợ. Thời này mà cầm trong tay 100 ngàn (VNĐ) ra chợ mua thực phẩm cho 22 người ăn nguyên ngày thì chuyên gia chợ búa cũng phải bó tay! Thế mà, khi đi thì giỏ trống trơn, khi về thì giỏ ắp đầy. Tay xách nách mang, dù trời mưa hay nắng, dù trời lạnh hay nóng, dì cũng nhẩn nha đi bộ gần một cây số từ chùa ra chợ, từ chợ về chùa.

Dấu hiệu khởi động bữa cơm trưa là lúc “cặp sanh đôi” chùa tôi chụm đầu bên sàn gạo nhặt thóc. Khi nồi cơm được bắt lên bếp thì giỏ đi chợ về được hai dì soạn ra. Trưa nay Tăng chúng ăn cơm với canh rau lang và Bí đỏ xào. Kẻ lặt rau, người gọt Bí, công việc nhanh gọn, hiệu quả; tất cả đều tươm tất trước khi chùa cúng Ngọ. Đến lúc dọn cơm cho chúng mới thấy hết oai thần của dì vãi chùa tôi. Đầu tiên, tô canh của Ôn được dì chia ba gắp rau Lang, tô canh của chúng mỗi người hai gắp; hai dì không chừa phần cho mình. Tiếp đến là món Bí đỏ xào. Dĩa của Ôn được 3 muỗng Bí đỏ, dĩa của chúng hai người 5 muỗng; dì cũng không chừa phần cho mình. Ai chưa về kịp cũng có phần như y như vậy và được dì đậy lồng bàn cẩn thận. Nếu chùa có vài khách đột xuất thì cũng chừng đó cơm và thức ăn nhưng qua đôi tay khéo léo của hai dì tất cả đều no đủ, an lòng.

Khi Ôn lắc chuông nguyện trước khi ăn cơm thì sẽ có một trong hai dì chắp hai tay sau lưng bước ra khỏi bếp ngó lướt một vòng xem ai có ai vắng. Lúc cơm dọn xuống hai dì sẽ kiểm tra xem mâm nào ăn hết, mâm nào còn nhiều, rồi tìm nguyên nhân “tại sao ăn ít? có bệnh gì không?”; nhất là mâm của Ôn. Sau đó, hai dì gom cơm và thức ăn còn lại của Tăng chúng thành một mâm cho mình rồi ngồi ăn tại cái phản trong bếp; lúc này các chú giúp hai dì thu dọn rửa chén.

Ăn xong hai dì không về phòng riêng để nghỉ trưa mà ngả lưng trên cái ghế gỗ kê trước cửa bếp nhắm mắt chập chờn, tại sao? là vì hai dì đang làm nhiệm vụ giữ của chùa! Nhiều bữa bôn ba nơi này, nơi khác, trưa về chùa xin cơm, ngắm hai dì thả lưng trên ghế tôi chợt nghĩ “niết bàn là đây tìm kiếm đâu xa cho mệt”! Nhưng cũng có hôm tôi cười thầm, nằm giữ của chùa mà tôi vào bếp bưng mâm cơm hai dì dành sẵn ra ăn, ăn xong dọn rửa úp lại rồi đi ra mà, “cặp sanh đôi” không hề hay biết.

Buổi chiều hai dì lặp lại quy trình nhặt thóc, nấu cơm, lặt rau, gọt củ, nấu chín, đếm và chia đều, cơm dọn xuống còn gì ăn nấy. Lúc các chú giúp hai dì rửa chén cũng là lúc “cặp sanh đôi” hoàn tất ba bữa ăn trong ngày. Trời chập choạng tối là khoảng thời gian thư thái nhất, hai dì mở tivi lên rồi kéo cái ghế ngồi mắt chăm chú vào màn hình; người hai dì ngắn, khi ngồi cặp giò lưng chừng chưa chấm đất. Nếu là mùa Đông dưới chân sẽ có om than để hong cho ấm; nếu là mùa hè sẽ có tiếng quạt quay vù vù cho mát mẻ. Có bữa hai dì thút thít vì Lan bỏ Điệp đi tu; có hôm hai dì vỗ chân cái đét khen Thái hậu Dương Vân Nga dũng khí với giặc Tàu. Cũng có hôm hai dì xem truyền hình, gặp chương trình dở hai dì buột miệng “bá láp” rồi tắt tivi đi nghỉ sớm.

Nhiều buổi tối chùa đã im vắng nhưng bếp vẫn còn tiếng lục xục, “cặp sanh đôi” làm gì vậy? hai dì kiểm tra lương thực thực phẩm cúng dường! Gạo cúng trước hai dì xếp ra ngoài để nấu trước, gạo cúng sau xếp vào trong từ từ nấu sau. Thực phẩm thì hai dì xem thời hạn, còn hạn lâu thì để dành, sắp hết hạn thì dùng trước. Có bữa dì cầm bịch nấm Đông Cô khô phân trần “tui đem ra chợ đổi, nửa ký nấm chùa ăn một ngày là hết, nhưng nếu đem ra chợ đổi lấy Mít (sống) về kho mặn thì chúng ăn được mười ngày! Cũng có người nói tui đem của chùa đi bán, nhưng làm gì lợi lạc cho Tăng chúng tui làm, ai nói chi mặc kệ”.
Minh hoa bai viet 3

Chùa tôi là chùa Hội cúng kỵ và sự kiện quanh năm, có lúc Tăng đoàn và Phật tử hội tụ hơn ngàn người. Phục vụ ăn uống cho con số ngàn không hề đơn giản, may mà Phật tử đổ về làm phụ. Nhưng người đông có cái hay cũng có cái dở, cái hay hai dì hỗ trợ, cái dở hai dì ngăn chặn. Dưới sự quán xuyến của “cặp sanh đôi” mất mát được giảm thiểu, tiết kiệm được tăng lên, việc hanh thông viên mãn. Khi những người phụ việc ra về nhà bếp như một buổi chợ tàn, hai dì xăn tay thu dọn: khăn, chén, dĩa, nồi, mâm, ly… được rửa sạch, lau khô, đếm từng cái cất vào kho; nếu lỡ mất món nào thì đó sẽ là chuyện càm ràm mà Tăng chúng phải nghe suốt một tuần sau đó.

Những ngày trở trời hai dì ủ rủ như cá thiếu nước, tôi tới gần hỏi han rồi đấm lưng cho dì này, được mươi cái thì nghe dì kia than nhức chân. Rời cái lưng qua bóp cái chân thì nghe cái lưng than mỏi, tôi cười, hèn gì người ta nói “chăm già như chăm trẻ”. Lúc hỏi không nói, lúc thì tự nhiên “cặp sanh đôi” mở lời “Chùa bây giờ Tăng chúng đông vui, Phật tử lui tới, rau gạo đủ đầy, hồi những năm 1975 -1995 Tăng chúng trôi dạt tứ xứ, Phật tử ít người thăm viếng, chùa không có cái ăn, tụi tui ra bờ thành hái rau cỏ qua bữa, giữ chùa đợi Tăng chúng về”. Tôi hỏi, nhưng khi Tăng chúng về rồi chùa sống bằng gì? Dì cười cười: “Mỗi ngày thầy Sự (tri sự) đưa ba ngàn đi chợ, hai miếng đậu phụ của Ôn (cố) hết sáu trăm, còn lại là ba bữa của chúng. Có bữa thầy Sự “quên” đưa tiền, tụi tui ra vườn kiếm mít non, chuối xanh, khế chua, rau dại vô nuôi chúng”. “Thầy Sự” mà hai dì nhắc lúc đó là Đại Đức, bây giờ là Hòa Thượng, kế thừa Ôn (cố) trú trì chùa. Điều đó có nghĩa là tuổi xuân xanh của hai dì trải dài trong nhà bếp chùa tôi.

Hôm rồi một dì về quê thăm nhà, không may trùng dịp dì kia phải nhập viện cấp cứu. Tăng chúng thay phiên nấu ngày ba bữa, thì cũng xong thôi nhưng, nhà bếp buồn thiu. Khi dì nằm viện Tăng chúng vô thăm hỏi ân cần. Khi dì ra viện, Ôn chạy lo toàn bộ viện phí. Con gái dì thưa với Ôn xin đón mẹ về nhà dưỡng sức, Ôn nói để chùa chăm sóc, nhưng con gái dì ngại Tăng chúng cực. Tôi tìm đến nhà con gái thăm dì và thật bất ngờ khi thấy dì ở trong ngôi nhà hai tầng khang trang lại có bà sui gia chăm sóc dì chu đáo khi các con bận đi làm. Thế mà, vừa gượng lại sức dì đã đòi về lại chùa, lý do rất quan trọng là “nếu bếp không ai trông ngó chùa sẽ bị mất đọi (chén)”; con gái dì không còn cách nào khác là chở dì lên chùa giao lại cho Ôn.

Thật ra “cặp sanh đôi” chùa tôi cũng có nhiều cái khác nhau: người có cha mẹ, người thân côi cút; người có chồng con, người nhẹ gánh gia đình; người cả ngày không nói, người càm ràm huyên thuyên. Gặp lúc thời tiết chuyển mùa người nóng sốt, người run lập cập; làm Tăng chúng nhiều phen hoảng vía. Và do tuổi lớn trạng thái hai dì vui giận khó đoán, nhưng dù có “khó đoán” đến đâu Tăng chúng cũng ráng mà đoán để “cặp sanh đôi” vui vẻ, khỏe mạnh, sống lâu.

Chuyện “Ốt dột! nấu ăn, vậy thôi” của dì vãi chùa tôi (và những dì vãi chân thật của nhiều chùa khác) người bàng quan cho rằng “Phật tử hầu Tăng”, kẻ sâu sắc lại nghĩ “Mẹ phụ con tu”, bậc thượng nhân thì biết rõ đó là “Những vị Hộ pháp”./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3719)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13227)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4344)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 5079)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10558)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4810)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6158)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7585)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 32205)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5488)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]