Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dì Vãi Chùa Tôi

10/06/201418:35(Xem: 6551)
Dì Vãi Chùa Tôi

Minh hoa bai viet 4DÌ VÃI CHÙA TÔI


Hai dì vãi chùa tôi tuổi đời đều đã trên 70. Về sự kính Ôn, trọng thầy, thương chú và đùm bọc điệu hai dì như nhau. Về sự siêng năng, chịu khó, tiết kiệm, giữ của cho chùa hai dì bằng nhau. Về vóc hình nhỏ nhắn hai dì giống nhau. Về chiều cao khiêm tốn hai dì ngang nhau. Thời Ôn (cố) còn sống, có mụ nhà quê lâu lâu mới lên thành phố tìm đến viếng chùa rồi gặp Ôn trú trì, sau khi đảnh lễ, mụ nói một câu tỉnh rụi về hai dì vãi chùa tôi: Ôn có “cặp sanh đôi” trông vui mắt, hí.

Tôi đã cất công tra cứu từ “dì vãi” để giải thích công việc của “cặp sanh đôi” chùa tôi, nhưng ngoài những chữ có như không có “Dì vãi là người giúp việc trong chùa nhưng không xuất gia”, còn thì không tìm được gì khác. Tôi tìm đến hai dì lân la hỏi chuyện công việc, chỉ nhận được câu trả lời có cũng như không: “Ốt dột! Nấu cơm, vậy thôi.”. Chữ nghĩa không ghi, người làm không nói, thực tế lại sinh động, chân thật, nghĩa tình; chỉ còn cách quan sát việc làm hằng ngày của hai dì để mô tả hai từ “dì vãi”. Nhưng nếu chỉ quan sát bằng mắt e rằng chưa đủ, mà trái tim và cái đầu của chúng ta cũng phải mở toang ra.

Chuông chùa vang lên lúc 3 giờ 30 sáng, đèn nhà bếp đã sáng tự bao giờ. Lúc này nước đã được dì vãi nấu sôi và đổ vào bình thủy để chú thị giả pha trà hầu Ôn. Đoán chừng Ôn vừa xong chén trà thứ ba, dì liền bước thấp bước cao đi từ nhà bếp lên nhà Tổ thưa vài câu, câu gì? Lúc nhắc Ôn hai ngày nữa chùa có hiệp Kỵ, và lắng nghe Ôn dạy chuẩn bị chợ búa phục vụ cho bao nhiêu người; bữa dì thưa có người cúng dường gạo, dầu, tương, muối…, để Ôn hồi hướng công đức cho họ. Có hôm dì lên chỉ để cầm cái ly Ôn vừa uống trà xong xuống rửa, vậy thôi. Chỉ vài câu thưa của dì vải, Ôn nắm được chuyện hậu cần của chùa và nội tình nhà bếp trước khi lên chánh điện công phu khuya. Chân của dì bị giãn tĩnh mạch, sưng vù, đi lại rất khó khăn. Thế mà dù thời tiết nào dì cũng lê đôi chân lên những bậc cầu thang lúc trời còn chưa tỏ, thưa gởi vài câu rồi xuống.

Câu kinh đầu tiên trên chánh điện ngân nga cũng là lúc ở nhà bếp dì bắt tay chuẩn bị buổi sáng cho Ôn. Nếu sáng nay dì nấu cháo Màu thì trên mặt phản sẽ có vài hộp nhựa nhỏ bằng lòng bàn tay, dì đựng gì trong đó? hộp này đựng nhiều loại đậu đủ màu sắc đã bóc vỏ làm sạch; hộp kia đựng đậu phụ và chả phù chúc được cắt 2 cm vuông; hộp nọ đựng cà rốt, khoai tây, su su cắt giống hạt lựu; toàn bộ dì đã sẵn sàng từ tối hôm qua, bây giờ chỉ còn cho gạo vào nấu thành món cháo vừa đẹp, vừa sạch vừa bổ dưỡng. Trong khi chờ gạo nhừ, dì quay qua chuẩn bị mâm. Từng cái chén, thố, dĩa, đũa, muỗng được dì lau cẩn thận. Biết Ôn thích ăn cay, dì không quên cắt vài trái ớt, thêm miếng chanh và chén nhỏ nước tương; tất cả được dì sắp xếp vào mâm một cách chu đáo. Tiếng tụng kinh chấm dứt, nồi cháo Màu cũng vừa chín tới, nhưng dì vẫn để hâm trên bếp, dì canh giờ. Nếu mùa hè, lo người đến chùa làm việc với Ôn sớm dì nhờ thị giả bưng mâm hầu Ôn lúc 6 giờ; nếu mùa Đông dì biết khách thường đến muộn, dì dọn trễ hơn 15 phút. Có ngày, mới dứt thời kinh khuya Ôn nhắn “dọn sớm Ôn đi xa có việc!”, chẳng biết dì biến hóa cách chi mà Ôn vẫn no bụng ấm lòng trước khi đi.
Minh hoa bai viet 5

Trong lúc dì này lo cho Ôn thì dì kia lo cho Tăng chúng. Việc đầu tiên là dì lặt và rửa một bó lớn chè tươi, nấu xong nồi nước chè trước khi thời kinh khuya kết thúc để chúng dùng nguyên ngày. Tiếp theo, dì lục hết tủ, nồi, xem thức ăn chiều qua còn sót lại gì không? nếu còn, thức ăn hoặc cơm nguội sẽ được dì hâm nóng, dì lo chúng bị lạnh bụng. Gặp lúc chùa có chút rau củ và dầu (sót lại của ngày kỵ hôm trước), dì sài sang bằng cách cắt nhỏ rau củ, khử chút dầu với boa rô thơm lừng rồi bỏ cơm nguội vô chiên mời chúng một bữa no nê. Cũng có bữa nhà bếp trống trơn đành mì gói muôn thuở, nhưng dì cũng ráng quơ tay cho có chút rau tươi để bữa sáng của chúng được mát ruột. Khi trời sáng tỏ cũng là lúc Ôn làm Phật sự, thầy đi dạy, chú đi học, lúc này “cặp sanh đôi” chùa tôi gom những gì còn thừa của Tăng chúng lót dạ qua loa cho xong buổi sáng.

Không có bản mô tả công việc như nhân viên doanh nghiệp, cũng không có chuyên viên xây dựng quy trình ISO, thế nhưng mọi việc hai dì làm đều nhịp nhàng và hợp lý. Lúc dì này rửa chén, dọn dẹp bếp núc, cũng là lúc dì kia xách giỏ đi chợ. Thời này mà cầm trong tay 100 ngàn (VNĐ) ra chợ mua thực phẩm cho 22 người ăn nguyên ngày thì chuyên gia chợ búa cũng phải bó tay! Thế mà, khi đi thì giỏ trống trơn, khi về thì giỏ ắp đầy. Tay xách nách mang, dù trời mưa hay nắng, dù trời lạnh hay nóng, dì cũng nhẩn nha đi bộ gần một cây số từ chùa ra chợ, từ chợ về chùa.

Dấu hiệu khởi động bữa cơm trưa là lúc “cặp sanh đôi” chùa tôi chụm đầu bên sàn gạo nhặt thóc. Khi nồi cơm được bắt lên bếp thì giỏ đi chợ về được hai dì soạn ra. Trưa nay Tăng chúng ăn cơm với canh rau lang và Bí đỏ xào. Kẻ lặt rau, người gọt Bí, công việc nhanh gọn, hiệu quả; tất cả đều tươm tất trước khi chùa cúng Ngọ. Đến lúc dọn cơm cho chúng mới thấy hết oai thần của dì vãi chùa tôi. Đầu tiên, tô canh của Ôn được dì chia ba gắp rau Lang, tô canh của chúng mỗi người hai gắp; hai dì không chừa phần cho mình. Tiếp đến là món Bí đỏ xào. Dĩa của Ôn được 3 muỗng Bí đỏ, dĩa của chúng hai người 5 muỗng; dì cũng không chừa phần cho mình. Ai chưa về kịp cũng có phần như y như vậy và được dì đậy lồng bàn cẩn thận. Nếu chùa có vài khách đột xuất thì cũng chừng đó cơm và thức ăn nhưng qua đôi tay khéo léo của hai dì tất cả đều no đủ, an lòng.

Khi Ôn lắc chuông nguyện trước khi ăn cơm thì sẽ có một trong hai dì chắp hai tay sau lưng bước ra khỏi bếp ngó lướt một vòng xem ai có ai vắng. Lúc cơm dọn xuống hai dì sẽ kiểm tra xem mâm nào ăn hết, mâm nào còn nhiều, rồi tìm nguyên nhân “tại sao ăn ít? có bệnh gì không?”; nhất là mâm của Ôn. Sau đó, hai dì gom cơm và thức ăn còn lại của Tăng chúng thành một mâm cho mình rồi ngồi ăn tại cái phản trong bếp; lúc này các chú giúp hai dì thu dọn rửa chén.

Ăn xong hai dì không về phòng riêng để nghỉ trưa mà ngả lưng trên cái ghế gỗ kê trước cửa bếp nhắm mắt chập chờn, tại sao? là vì hai dì đang làm nhiệm vụ giữ của chùa! Nhiều bữa bôn ba nơi này, nơi khác, trưa về chùa xin cơm, ngắm hai dì thả lưng trên ghế tôi chợt nghĩ “niết bàn là đây tìm kiếm đâu xa cho mệt”! Nhưng cũng có hôm tôi cười thầm, nằm giữ của chùa mà tôi vào bếp bưng mâm cơm hai dì dành sẵn ra ăn, ăn xong dọn rửa úp lại rồi đi ra mà, “cặp sanh đôi” không hề hay biết.

Buổi chiều hai dì lặp lại quy trình nhặt thóc, nấu cơm, lặt rau, gọt củ, nấu chín, đếm và chia đều, cơm dọn xuống còn gì ăn nấy. Lúc các chú giúp hai dì rửa chén cũng là lúc “cặp sanh đôi” hoàn tất ba bữa ăn trong ngày. Trời chập choạng tối là khoảng thời gian thư thái nhất, hai dì mở tivi lên rồi kéo cái ghế ngồi mắt chăm chú vào màn hình; người hai dì ngắn, khi ngồi cặp giò lưng chừng chưa chấm đất. Nếu là mùa Đông dưới chân sẽ có om than để hong cho ấm; nếu là mùa hè sẽ có tiếng quạt quay vù vù cho mát mẻ. Có bữa hai dì thút thít vì Lan bỏ Điệp đi tu; có hôm hai dì vỗ chân cái đét khen Thái hậu Dương Vân Nga dũng khí với giặc Tàu. Cũng có hôm hai dì xem truyền hình, gặp chương trình dở hai dì buột miệng “bá láp” rồi tắt tivi đi nghỉ sớm.

Nhiều buổi tối chùa đã im vắng nhưng bếp vẫn còn tiếng lục xục, “cặp sanh đôi” làm gì vậy? hai dì kiểm tra lương thực thực phẩm cúng dường! Gạo cúng trước hai dì xếp ra ngoài để nấu trước, gạo cúng sau xếp vào trong từ từ nấu sau. Thực phẩm thì hai dì xem thời hạn, còn hạn lâu thì để dành, sắp hết hạn thì dùng trước. Có bữa dì cầm bịch nấm Đông Cô khô phân trần “tui đem ra chợ đổi, nửa ký nấm chùa ăn một ngày là hết, nhưng nếu đem ra chợ đổi lấy Mít (sống) về kho mặn thì chúng ăn được mười ngày! Cũng có người nói tui đem của chùa đi bán, nhưng làm gì lợi lạc cho Tăng chúng tui làm, ai nói chi mặc kệ”.
Minh hoa bai viet 3

Chùa tôi là chùa Hội cúng kỵ và sự kiện quanh năm, có lúc Tăng đoàn và Phật tử hội tụ hơn ngàn người. Phục vụ ăn uống cho con số ngàn không hề đơn giản, may mà Phật tử đổ về làm phụ. Nhưng người đông có cái hay cũng có cái dở, cái hay hai dì hỗ trợ, cái dở hai dì ngăn chặn. Dưới sự quán xuyến của “cặp sanh đôi” mất mát được giảm thiểu, tiết kiệm được tăng lên, việc hanh thông viên mãn. Khi những người phụ việc ra về nhà bếp như một buổi chợ tàn, hai dì xăn tay thu dọn: khăn, chén, dĩa, nồi, mâm, ly… được rửa sạch, lau khô, đếm từng cái cất vào kho; nếu lỡ mất món nào thì đó sẽ là chuyện càm ràm mà Tăng chúng phải nghe suốt một tuần sau đó.

Những ngày trở trời hai dì ủ rủ như cá thiếu nước, tôi tới gần hỏi han rồi đấm lưng cho dì này, được mươi cái thì nghe dì kia than nhức chân. Rời cái lưng qua bóp cái chân thì nghe cái lưng than mỏi, tôi cười, hèn gì người ta nói “chăm già như chăm trẻ”. Lúc hỏi không nói, lúc thì tự nhiên “cặp sanh đôi” mở lời “Chùa bây giờ Tăng chúng đông vui, Phật tử lui tới, rau gạo đủ đầy, hồi những năm 1975 -1995 Tăng chúng trôi dạt tứ xứ, Phật tử ít người thăm viếng, chùa không có cái ăn, tụi tui ra bờ thành hái rau cỏ qua bữa, giữ chùa đợi Tăng chúng về”. Tôi hỏi, nhưng khi Tăng chúng về rồi chùa sống bằng gì? Dì cười cười: “Mỗi ngày thầy Sự (tri sự) đưa ba ngàn đi chợ, hai miếng đậu phụ của Ôn (cố) hết sáu trăm, còn lại là ba bữa của chúng. Có bữa thầy Sự “quên” đưa tiền, tụi tui ra vườn kiếm mít non, chuối xanh, khế chua, rau dại vô nuôi chúng”. “Thầy Sự” mà hai dì nhắc lúc đó là Đại Đức, bây giờ là Hòa Thượng, kế thừa Ôn (cố) trú trì chùa. Điều đó có nghĩa là tuổi xuân xanh của hai dì trải dài trong nhà bếp chùa tôi.

Hôm rồi một dì về quê thăm nhà, không may trùng dịp dì kia phải nhập viện cấp cứu. Tăng chúng thay phiên nấu ngày ba bữa, thì cũng xong thôi nhưng, nhà bếp buồn thiu. Khi dì nằm viện Tăng chúng vô thăm hỏi ân cần. Khi dì ra viện, Ôn chạy lo toàn bộ viện phí. Con gái dì thưa với Ôn xin đón mẹ về nhà dưỡng sức, Ôn nói để chùa chăm sóc, nhưng con gái dì ngại Tăng chúng cực. Tôi tìm đến nhà con gái thăm dì và thật bất ngờ khi thấy dì ở trong ngôi nhà hai tầng khang trang lại có bà sui gia chăm sóc dì chu đáo khi các con bận đi làm. Thế mà, vừa gượng lại sức dì đã đòi về lại chùa, lý do rất quan trọng là “nếu bếp không ai trông ngó chùa sẽ bị mất đọi (chén)”; con gái dì không còn cách nào khác là chở dì lên chùa giao lại cho Ôn.

Thật ra “cặp sanh đôi” chùa tôi cũng có nhiều cái khác nhau: người có cha mẹ, người thân côi cút; người có chồng con, người nhẹ gánh gia đình; người cả ngày không nói, người càm ràm huyên thuyên. Gặp lúc thời tiết chuyển mùa người nóng sốt, người run lập cập; làm Tăng chúng nhiều phen hoảng vía. Và do tuổi lớn trạng thái hai dì vui giận khó đoán, nhưng dù có “khó đoán” đến đâu Tăng chúng cũng ráng mà đoán để “cặp sanh đôi” vui vẻ, khỏe mạnh, sống lâu.

Chuyện “Ốt dột! nấu ăn, vậy thôi” của dì vãi chùa tôi (và những dì vãi chân thật của nhiều chùa khác) người bàng quan cho rằng “Phật tử hầu Tăng”, kẻ sâu sắc lại nghĩ “Mẹ phụ con tu”, bậc thượng nhân thì biết rõ đó là “Những vị Hộ pháp”./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 3491)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3124)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8750)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3886)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4268)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7409)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2743)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2951)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4427)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567