Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Mẹ Từ Bi - một chuyến đi dài

27/11/201311:49(Xem: 19029)
16. Mẹ Từ Bi - một chuyến đi dài

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



PHẦN II

MẸ TỪ BI


16. Một chuyến đi dài







Chúng tôi khởi hành đi Lhasa ngày mùng ba tháng sáu năm 1939[1]. Ngày giờ xuất hành của chúng tôi đã được các nhà chiêm tinh ở thủ đô Lhasa quyết định. Mẹ tôi đã đến tu viện Kumbum để tiễn chúng tôi, nhưng vì đã già nên bà không thể đi xa hơn. Bà bảo chúng tôi hãy trở về Tsongkha sau một hay hai năm. Nếu chúng tôi biết rằng nhiều năm sẽ trôi qua trước khi tôi trông thấy lại quê nhà của mình, nỗi buồn lúc ra đi của tôi chắc chắn sẽ lớn hơn.

Đoàn của chúng tôi gồm có tôi, chồng tôi, Lhamo Dhondup, hai con trai của tôi, Ngawang Changchup, quản lý tu viện Kumbum. Con trai trưởng của tôi, Takster Rinpoche, tức là Thubten Jigme Norbu, ở lại tu viện, cũng như con gái đầu lòng của tôi, Tsering Dolma. Chúng tôi hy vọng nếu hoàn cảnh ở Lhasa tốt đẹp, chúng tôi sẽ cho hai người con này đến sống cùng với chúng tôi.

Sự kiện con trai của tôi được chọn làm Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn được xem là điều bí mật, nhưng với lời đồn lan rộng, nhiều người trong làng đã đến gặp đoàn chúng tôi xin yết kiến. Nhưng khi chúng tôi vẫn đang ở trong lãnh thổ Trung Quốc, không thể cho ai gặp chúng tôi, vì như vậy là quá nguy hiểm. Chúng tôi nói với mọi người rằng đứa trẻ này chỉ là ứng viên cho việc chọn vị Đạt Lai Lạt Ma. Sau khi rời khỏi tu viện Kumbum hai ngày, chúng tôi đến tu viện Tulku, ở bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Trong ngôi chánh điện ở đó, chúng tôi làm lễ cầu an, và sau đó dân địa phương đến yết kiến.

Dọc đường, một số người bộ tộc Sangsang đến chào chúng tôi. Là người Tsongkha, tôi thấy họ có vẻ rất dơ bẩn, và tôi chê họ điều này, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma nổi giận khi thấy tôi phê phán người khác theo vẻ bề ngoài của họ. Lúc đó ngài mới bốn tuổi.

Từ tu viện Tulku, chúng tôi đi tiếp đến Tsaidam, và ở lại đó mười ngày. Mỗi ngày có khoảng hai trăm cho đến ba trăm người đến gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Chúng tôi lại đi tới Koko Nor, nơi chúng tôi cắm trại ba ngày. Đây là chỗ cỏ xấu tới mức nếu ngựa ăn chúng sẽ ngã bệnh mà chết. Ở những chỗ này, chúng tôi lấy vải bịt miệng ngựa lại để chúng khỏi gặm cỏ. Trên đường đi, chúng tôi trông thấy nhiều thú hoang như lừa, dê núi và gấu. Vào ban đêm, lừa hoang làm cho lũ ngựa hốt hoảng chạy lung tung. Việc này đã làm cho mấy người giữ ngựa phát mệt, vì họ phải chạy đi tìm những con ngựa loạn tẩu. Khi thấy lừa hoang xuất hiện, người ta phải bắn chỉ thiên để đuổi chúng đi.

Hành trình từ Tu viện Kumbum đến thủ đô Lhasa kéo dài gần ba tháng[2]. Có hơn một ngàn người trong đoàn tùy tùng của chúng tôi, với mấy ngàn con vật. Du hành hết ngày này sang ngày khác trong mấy tháng liền không phải là một việc dễ dàng. Nếu muốn đi qua khỏi vùng nổi tiếng nhiều trộm cướp hay nơi quá lạnh để nghỉ đêm, chúng tôi phải di chuyển hai mươi bốn giờ liên tục trước khi tới chỗ nghỉ.

Cuộc hành trình trở nên mệt nhọc hơn vì chúng tôi phải cấp tốc đi tới Lhasa cho sớm. Chúng tôi đi hết sức nhanh. Chúng tôi thức dậy từ ba giờ sáng. Những người mang lều sẽ gập lều lại rồi lên đường trước chúng tôi, những cái lều này lớn như cái nhà. Chúng tôi không bao giờ ăn điểm tâm, nếu ăn điểm tâm chúng tôi sẽ sớm cảm thấy đói; nếu không ăn chúng tôi sẽ không thấy đói cho tới lần ngừng lại kế tiếp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đi cùng với anh Lobsang Samten, sáu tuổi, trong một chiếc kiệu do ngựa kéo. Tôi ngồi ở một cái kiệu riêng được bốn con la kéo. Những chiếc kiệu được thêu rất đẹp, với những cửa sổ nhỏ có lưới sắt tréo nhau. Kiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma được làm bằng gấm vàng, còn kiệu của tôi làm bằng vải bông màu lục. Lúc đó Gyalo Thondup được mười một tuổi. Dù tôi hết sức bảo cậu đi kiệu với tôi, cậu ta vẫn cưỡi ngựa. Cậu ta thừa hưởng tính thích cưỡi ngựa từ cha của cậu. Không nói cho tôi biết, cậu ta đã đi cùng với mấy người giữ lều từ sáng sớm.

Chúng tôi đi theo đường Namkatse, Piti, Tsaidam và Dugdug. Phần lớn vùng này không có đường đi thực sự, chỉ có những đồng cỏ. Khi chúng tôi đến dòng sông ở Dijughu, mấy con vật phải mất nửa tiếng để lội qua sông. Người ta phải đưa chúng đi qua thật mau, nếu không chúng sẽ bị chìm vào trong lớp đất mềm ở đáy sông.

Phái đoàn đầu tiên từ Lhasa, gồm các nhà quý tộc và các viên chức đang đợi chúng tôi ở Dugdug. Sau đó các ông Suthupa và Kungo Khenpo đón tiếp chúng tôi ở Wamathang. Các viên chức chính phủ đến Drichu và biếu tôi mấy cái "patu" bằng ngọc trai và san hô, đây là loại trang sức trên đầu của phụ nữ Lhasa, cùng với mấy cái áo gấm và những món trang phục khác mà các bà ở Lhasa thường dùng. Tôi từ chối đeo "patu". Tôi nói rằng tôi đã đeo "hari" từ năm mười sáu tuổi, vì vậy sẽ không cảm thấy dễ chịu với cái "patu", một món trang sức rất nặng.

Khi đến tu viện Reting, chúng tôi được vị nhiếp chính là Reting Rinpoche[3]tiếp đón. Ông là người trẻ trung, mới hơn ba mươi tuổi và đứng đầu chính phủ trong khoảng thời gian gián cách giữa hai vị Đạt Lai Lạt Ma. Ông ta hỏi tôi nghĩ sao về cái “patu”. Khi tôi nói rằng tôi sẽ vẫn đeo cái "hari" của mình, ông khen nó rất đẹp. Ông nói rằng mặc trang phục truyền thống của mình là ý tưởng rất tốt, và rằng mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma phải khác với những người khác. Ông ta rất thích cái "hari" của tôi. Khi tôi nói rằng chính tôi đã thêu những hình trang trí cầu kỳ đó, ông ta nói sẽ đến thăm tôi ở Lhasa và nhờ tôi thêu những cái mũ của các tu sĩ tông phái Gelugpa.

Tôi ngạc nhiên khi nhiếp chính Reting mô tả chi tiết ngôi nhà của chúng tôi ở Taktser mà ông đã trông thấy trong một linh thị. Ông biết là có một cái cây ở sân sau, một cái tháp ở lối vào, và chúng tôi có một con chó nhỏ hai mầu đen trắng với con chó lớn ở sân trước. Ông nhận thấy có nhiều người thuộc những quốc tịch khác nhau ở nhà chúng tôi và hỏi họ là ai. Tôi nói họ là những người Hồi Giáo và Trung Hoa mà chúng tôi đã mướn để làm công việc đồng ruộng.

Ông ta nói rằng người Amdo rất thẳng thắn, thực thà và tâm hồn trong sáng, dù họ nóng tính nhưng sự sân hận của họ phát khởi nhanh và tan biến cũng nhanh. Ông cho tôi biết ngược lại, người ở Lhasa có tâm hồn kém trong sáng hơn và chúng tôi sẽ gặp nhiều hạng người khác nhau ở Lhasa, có những người sẽ thực sự thân thiện và thành thật nhưng cũng có những người sẽ tìm cách làm hại chúng tôi. Ông nói cho tôi biết rằng các viên chức chính phủ là những người có nhiều kinh nghiệm trong việc nịnh bợ. Bên ngoài thì họ có vẻ hiền lành, nhưng không thể biết họ có những ý định gì ở bên trong. Ông cảnh cáo tôi phải cẩn thận với những gì mình ăn, và không bao giờ nhận một món ăn nào không được nấu trong bếp của chính tôi, vì có thể có thuốc độc ở trong món ăn đó.

Chúng tôi ở lại tu viện Reting ba ngày. Ở đây các tu sĩ tổ chức một lễ tiếp đón lớn dành cho Đức Đạt Lai Lạt Ma mới của họ. Chúng tôi được tiếp đãi thật trang trọng và còn được xem "lhamo", một loại tuồng Tây Tạng. Từ Reting đi ba ngày thì đến Lhasa. Trên đường đi chúng tôi được đón rước bởi nhiều tu sĩ, viên chức và các nhà quý tộc, cũng như các vị tu viện trưởng của ba tu viện Sera, Ganden và Drepung đến yết kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma. Họ dâng cho ngài khăn lễ truyền thống và biếu tôi những món trang sức bằng lụa và nhung thật đẹp.

Sau khi đi khỏi tu viện Reting, chúng tôi ngừng lại hai ngày ở Reja, một tu viện ở trên ngọn đồi, vì các nhà chiêm tinh nhận thấy nếu chúng tôi đến Lhasa đúng giờ đã định thì sẽ không thuận lợi.

Reting Rinpoche cũng như các vị trong Kashag (Hội Đồng Bộ Trưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma), các tu sĩ cao cấp, các "khemp" (học giả) đi cùng với chúng tôi trong đoàn. Các binh sĩ hộ tống chúng tôi ở hai bên trái và phải. Đây là một sự kiện có tính chất vừa khổ hạnh vừa nghiêm trang, lại vừa hân hoan. Nhạc lễ đi cùng với chúng tôi suốt con đường. Ngay khi trông thấy thủ đô Lhasa từ đằng xa, tôi cảm thấy nghẹn ngào. Tôi đã nghe nói nhiều về thành phố này và thường mơ mộng về nó, bây giờ tôi thấy giấc mơ của mình đang trở thành sự thật.



[1]Có một số lời kể ghi nhận ngày khởi hành là hai mươi mốt tháng bảy dương lịch năm 1939.

[2]Đoàn lữ hành đến Lhasa ngày tám tháng mười năm 1939.

[3]Ghi chú: Reting là người trông thấy linh ảnh trong một hồ nước dẫn đến việc tìm thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5673)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5696)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3805)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4651)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15074)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3132)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11308)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18295)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6286)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3193)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]