Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Con gái nông thôn

27/11/201310:29(Xem: 20310)
01. Con gái nông thôn

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Tác giả: Diki Tsering
Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup
Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering
Việt dịch: Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Pt Quảng An


PHẦN I.

CON GÁI CỦA NÔNG THÔN

 




1. Nhìn lại

Tôi có một cuộc đời kỳ lạ, gần như không thật. Bây giờ khi tôi cố gắng nhớ lại câu chuyện của đời mình, quý vị phải tha thứ cho tôi, nếu có những lúc trí nhớ của tôi đứt đoạn. Tất cả đều đã lâu lắm rồi và cho đến bây giờ, thời thơ ấu của tôi chưa bao giờ là một đề tài để nói chuyện. Tôi không biết phải kể làm sao cho hấp dẫn. Có một điều "ngộ" là các vị hỏi ngày sinh của tôi. Nếu tôi hỏi bà nội hay bà ngoại của tôi một câu hỏi như vậy, tôi sẽ bị mắng dữ dội vì tội bất kính. Thời đại đã thay đổi nhiều biết bao. Nói thật là tôi không biết chính xác ngày sinh của mình. Ngày sinh thì có gì quan trọng đối với chúng tôi, chúng tôi được sinh ra trong lặng lẽ, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng, sinh con, và rồi chết. Chúng tôi sống một cuộc đời đơn sơ với niềm tin rằng con người và đời sống là những gì bình thường và tự nhiên.

Tôi sinh ra vào khoảng tháng giêng năm con Bò Sắt (Tân Sửu 1901). Tôi được đặt tên là Sonam Tsomo. Tên khai sinh của tôi thuộc về một đời sống khác. Đa số mọi người biết đến tôi với cái tên Diki Tsering, nhưng lúc mới ra đời tôi không được đặt tên là Diki Tsering. Từ khi sống ở Lhasa, tôi cố gắng trở thành Diki Tsering với tất cả ý nghĩa của cái tên này. Vì bổn phận trong địa vị mới của mình, tôi dần dần thôi là Sonam Tsomo, một cô gái đơn sơ với đời sống đơn sơ và ước vọng đơn sơ, làm một người vợ và một người mẹ tốt. Tôi cảm thấy nhớ cô gái mà tôi đã tự bắt mình phải quên.

Niềm tin cũng như số phận đã đẩy tôi vào đời sống bất ngờ và khó tin, đó là làm mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi sự việc diễn ra, dường như tôi đã mất hết can đảm và tự tin, tôi đã phát sợ như một đứa trẻ vì nhiệm vụ lớn lao đang ở trước mặt mình. Nhưng khi tôi tự nhủ mình là Diki Tsering, cái tên được đặt cho tôi vào ngày cưới có nghĩa là "biển phước" (ocean of luck), một sự tái sinh phát ra tất cả những sức mạnh cương quyết ở trong tôi. Tôi không còn sợ nữa, và tôi sẵn lòng thách thức số mạng, quyết định sẽ không chìm đắm trong cơn sóng lớn.

Ngày nay tôi là một bà già mệt mỏi với bệnh tê thấp. Nhưng dù thể xác có bệnh tật bao nhiêu, tinh thần trẻ trung của con người ta vẫn sống mạnh. Tinh thần này không bao giờ rời bỏ người ta, dù trước sự đau khổ lớn nhất. Bây giờ những người bạn còn lại của tôi là ký ức và mơ mộng. Tâm trí của tôi quay trở về mỗi lúc mỗi nhiều hơn thời thơ ấu, cha mẹ, ông bà, và nơi ra đời của tôi. Tôi trông thấy rất rõ những cánh đồng, sông suối, núi đồi, nông trại nơi tôi đã lớn lên, và tôi cảm thấy một cách rất mạnh mẽ cuộc trở về quê hương trong đoạn cuối cuộc hành trình của đời sống mình.

Những phong tục tập quán dễ bị phá bỏ và lãng quên. Ngày nay khi nhìn những người trẻ, tôi thường nghĩ họ có phản ứng chống lại những truyền thống dân tộc là để phô trương lối sống hiện đại của mình. Dù có tính chất dễ thích nghi và khả năng thay đổi, tôi hãnh diện mình là người theo đúng truyền thống dân tộc. Điều này có làm cho tôi cổ hủ và lỗi thời hay không? Tôi không nghĩ như vậy. Tôi vẫn luôn kiêu hãnh và có ý chí mạnh mẽ. Tôi đã đánh nhiều trận và sau mỗi chiến thắng đã trở nên mạnh mẽ hơn. Truyền thống của tôi, gốc rễ của tôi như một người Tây Tạng, đã làm cho tôi vững chắc. Người ta không thể chối bỏ hay lãng quên truyền thống. Truyền thống tạo ra tinh thần và lòng kiêu hãnh của con người và là cái khung của tình cảm con người. Truyền thống làm ra con người mình và quy định mình là mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5086)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11184)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9368)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7750)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3774)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6320)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87125)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6621)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4841)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]